C.Mác từng khẳng định rằng, không nên bàn đến có hay không có tự do báo chí; tự do báo chí bao giờ cũng có; vấn đề là tự do cho ai và tự do để làm gì. Bởi trong xã hội còn phân biệt và khác biệt lợi ích giữa các giai cấp và các nhóm xã hội, thì tự do cho giai cấp hay nhóm xã hội này, có thể là hạn chế tự do đối với giai cấp khác, nhóm xã hội khác. Và lẽ đương nhiên, đối với các giai cấp hay các nhóm xã hội khác nhau, sử dụng tự do ngôn luận như công cụ nhằm đạt tới những mục đích không giống nhau, chủ yếu vì lợi ích của giai cấp mình, nhóm xã hội do mình đại diện.
Từ thực tiễn đấu tranh, C.Mác tổng kết rằng, vũ khí phê phán quyết không thể thay thế việc phê phán bằng vũ khí; lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bởi lực lượng vật chất, nhưng mỗi khi tinh thần đã thấm vào quần chúng thì chính nó sẽ trở thành sức mạnh vật chất. Báo chí, truyền thông khi đã thâm nhập vào công chúng xã hội có thể làm thay đổi, thậm chí điều chỉnh nhận thức, thái độ và hành vi của hàng triệu người-khối vật chất khổng lồ tạo nên sức mạnh xã hội. Do đó, khi “ngai vàng thống trị” đã về tay giai cấp tư sản, tự do báo chí lại không dành cho số đông nhân dân lao động, những người trước đó đã đi theo ngọn cờ tự do của giai cấp tư sản, mà chỉ dành cho những người có tiền, có quyền lực nhằm lũng đoạn dư luận vì các mục đích của giai cấp và tầng lớp cầm quyền, trong đó chủ yếu là mục đích chính trị và siêu lợi nhuận. Như vậy, tự do báo chí luôn được xem xét trong tính lịch sử của nó-cả trên phương diện lịch đại cũng như đồng đại.
Trong biên bản trả lời phỏng vấn sâu qua email với tác giả bài viết vào tháng 4-2009, Tom McEnroy, Tổng biên tập một tờ báo ở Mỹ đã thừa nhận rằng, “báo chí Mỹ đặt lợi ích kinh tế lên hàng đầu. Điều đó có nghĩa là bạn không thể xuất bản những điều có thể gây tổn hạn đến lợi ích của mình. Hoa Kỳ là một nước tư bản, và bất kỳ thực thể nào: Nhà thờ, bệnh viện, đài truyền hình, trước hết là một doanh nghiệp và phải tự nuôi sống mình. Nếu tôi cho đăng một quan điểm chống Chính phủ, một vài người sẽ không đồng ý và có thể sẽ áp đặt những hình phạt kinh tế đối với tờ báo của tôi để thể hiện sự không hài lòng của mình. Ví dụ, họ có thể kêu gọi những người ủng hộ họ không mua báo của tôi”.
Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác cũng đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận nói riêng; nhưng các văn bản này cũng lưu ý rằng, các quyền này có thể chịu hạn chế do pháp luật nước sở tại đặt ra.
Do đó, trong quá trình thực hiện quyền tự do ngôn luận, nên lưu ý đến mấy vấn đề sau đây.
Thứ nhất, thừa nhận quyền tự do ngôn luận, nhất là thể hiện quyền này trên báo chí và các phương tiện truyền thông, cũng đồng thời cần hiểu rằng, các quyền này đều được chế định bởi các yếu tố như môi trường pháp lý, môi trường văn hóa và chính năng lực nhận thức và thực thi quyền của công dân.
Thứ hai, mục đích của việc thừa nhận và thực hiện quyền công dân nói chung, quyền tự do ngôn luận nói riêng là vì lợi ích công-lợi ích của cộng đồng vì sự phát triển bền vững đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, chứ không phải để thỏa mãn “ngôn luận tự do” của cá nhân hay nhóm xã hội, không phải để “cá lớn nuốt cá bé”; mặt khác, kết quả của việc nhận thức và thực hiện quyền này là quá trình đánh dấu những nấc thang trong quá trình phát triển.
Thứ ba, đây là quá trình nỗ lực không ngừng từ nhiều phía, từ Nhà nước đến công dân và cộng đồng xã hội nhằm nỗ lực thống nhất cùng tạo điều kiện để mở mang hiểu biết, ngày càng tạo ra nhiều tương đồng trong nhận thức, giảm dần sự khác biệt; trong đó, Nhà nước đóng vai trò quan trọng như chủ thể thiết lập và duy trì trật tự xã hội. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã sớm thiết lập quan điểm nền tảng xây dựng “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”; với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” cũng nhằm giúp cộng đồng và công dân có thêm điều kiện nâng cao nhận thức, mở mang hiểu biết và thay đổi hành vi trong thực hiện quyền tự do ngôn luận.
Bài viết rất hấp dẫn
Trả lờiXóa