Thứ Hai, 28 tháng 6, 2021

HIỂU ĐÚNG VỀ “TỰ DO BÁO CHÍ”

 

Cương Trực

Không có một khái niệm thống nhất về “Tự do báo chí” song có một giá trị chung mà phần lớn các quốc gia có xu hướng tiến bộ đều thừa nhận, đó là: Bảo đảm quyền tự do báo chí phải hướng tới xây dựng một xã hội phát triển ổn định, lành mạnh, nhân văn. Báo chí có quyền tự do thông tin, nhưng thông tin đó không làm ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định, lành mạnh của xã hội.

Trên thế giới, không thể có “tự do báo chí” một cách tuyệt đối, mà chỉ có “tự do báo chí” có giới hạn. Giới hạn đó tùy thuộc vào quan niệm của mỗi nhà nước nhưng thực tiễn lịch sử báo chí thế giới đã chứng minh rằng, không có một nền báo chí của quốc gia nào, một cơ quan báo chí, một nhà báo nào được quyền “đứng trên", "đứng ngoài” pháp luật hay không tuân thủ những phép tắc, chuẩn mực, phong tục, tập quán của cộng đồng dân tộc. Cố tình làm trái những nguyên tắc sơ đẳng này, báo chí không thể tồn tại. Năm 2005, một tờ báo của Đan Mạch đăng tải 12 bức tranh biếm họa về đấng tiên tri Mô-ha-mét của Hồi giáo, đã gây nên một làn sóng phẫn nộ mạnh mẽ của những người theo đạo Hồi trên toàn thế giới. Tháng 7-2011, tờ News of the World (Tin tức thế giới), tờ báo “lá cải” lớn nhất nước Anh đã phải đình bản vĩnh viễn sau gần 170 năm tồn tại vì hàng loạt cáo buộc nhiều phóng viên bản báo đã đột nhập điện thoại của hàng nghìn người dân để “săn tin” bất chấp đạo đức và luật pháp.

 Bàn về “tự do báo chí” ở Việt Nam, một vài tổ chức phi chính phủ ở nước ngoài và một số cá nhân có thái độ thiếu thiện chí vẫn viện cớ rằng, Việt Nam không có “tự do báo chí” vì “không có truyền thông độc lập, báo chí bị Đảng Cộng sản và chính quyền điều khiển, chi phối” và “một số nhà báo, nhà bất đồng chính kiến mạng bị cầm tù vì những phát biểu của họ”. Điều đó vừa phản ánh không đúng bản chất vấn đề, vừa thể hiện cái nhìn phiến diện, cực đoan và mang dụng ý, mưu đồ xấu.

Tính ưu việt của quyền tự do báo chí ở Việt Nam còn được thể hiện sâu sắc ở Điều 10, Điều 11 Luật Báo chí năm 2016. Điều 10 quy định công dân có quyền: “1. Sáng tạo tác phẩm báo chí; 2. Cung cấp thông tin cho báo chí; 3. Phản hồi thông tin trên báo chí; 4. Tiếp cận thông tin báo chí; 5. Liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; 6. In, phát hành báo in”. Điều 11 quy định công dân có quyền tự do ngôn luận trên báo chí, thể hiện ở các nội dung: “1. Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; 2. Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; 3. Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác”. Khoản 3, Điều 13 của luật này cũng quy định rõ: “Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.

Cần nhận rõ một điều: một số “nhà đấu tranh dân chủ”, “nhà báo tự do”... thời gian qua bị xử lý hình sự không phải xuất phát từ “những phát biểu của họ”, mà là do họ đã đi quá giới hạn tự do báo chí cho phép, thực chất là họ cố tình cho đăng, phát thông tin có nội dung xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền nhân dân; bịa đặt thông tin gây hoang mang dư luận; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc... Những hành vi đó là vi phạm pháp luật và tất yếu phải bị xử lý.

1 nhận xét:

  1. Trước những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta; chúng ta cần bình tĩnh xem xét và xử lý thông tin chuẩn xác, tránh mắc mưu của chúng.

    Trả lờiXóa