Bùi Xuân Quỳnh
Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta khẳng định mục tiêu cao nhất của tiến bộ và công bằng xã hội là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Ngay từ khi mới ra đời trong “Chánh cương vắn tắt” (1930) đến Đại hội II (1951), Đại hội III (1960) của Đảng, cùng với xác định mục tiêu đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất tổ quốc, đã luôn quan tâm “Cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta được ăn no, mặc ấm, tăng thêm sức khỏe, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị”[1].
Đại hội IV, Đại hội V của Đảng với nhận thức chế độ tư hữu là nguồn gốc của sự bất công, bất bình đẳng xã hội nên còn có chủ quan, nôn nóng trong việc xóa bỏ chế độ tư hữu để mục tiêu sớm đạt được tiến bộ và công bằng xã hội dẫn đến đất nước có những khủng hoảng nhất định về kinh tế - xã hội. Đại hội VI của Đảng (1986), đại hội của sự đổi mới toàn diện đất nước, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của tiến bộ và công bằng xã hội: “coi nhẹ chính sách xã hội cũng là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[2]. Song, Đảng nhận thấy việc giải quyết các mục tiêu xã hội phải luôn gắn và đặt trong quan hệ với phát triển kinh tế: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc... Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”. “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế.”[3].Đảng ta xác định, thực hiện công bằng xã hội
phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Nguyên tắc phân phối theo lao động đã
đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng bảo đảm yêu cầu
tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính chất bình quân, xoá bỏ từng bước phần
cung cấp còn lại trong chế độ tiền lương, áp dụng các hình thức trả lương gắn
chặt với kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Đồng thời luôn chăm lo nâng cao chất lượng giáo dục
nhằm hoàn thiện nhân cách con người xã hội chủ nghĩa, tiếp tục phát triển nâng
cao chất lượng các hoạt động văn hóa, dịch vụ y tế, v.v..
Cương lĩnh năm
1991 khẳng định: “Chính
sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi
tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[4].
Cương lĩnh xác định phương
hướng lớn của chính sách xã hội là: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo
đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá
nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”[5].
Nhận thức của Đảng ta về tiến
bộ và công bằng xã hội qua các thời kỳ đến Đại hội VII đã được định hình cơ bản:
“Tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường. Lấy phân phối theo lao
động làm hình thức chính, khuyến khích làm giàu đi đôi với giảm số người nghèo,
nâng cao phúc lợi xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, thực hiện nam
nữ bình đẳng, tạo cơ hội cho mọi người đều được cống hiến và được hưởng thành
quả của sự phát triển”[6]. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), đã cụ thể hơn: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển. Công bằng xã hội thể hiện cả ở khâu phân phối
hợp lý tư liệu sản xuất, lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, cũng như ở điều
kiện phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng”[7].
Bổ sung hình thức phân phối: “…theo nguồn vốn đóng góp và sản xuất kinh doanh”[8].
Đại
hội VIII của Đảng nhấn mạnh hơn việc tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện
đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường[9].
Coi phân phối thông qua
phúc lợi xã hội là một hình thức cơ bản: “Thực hiện nhiều hình thức phân
phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng
thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất –
kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội”[10].
Đại hội VIII của Đảng đã xây dựng Chương trình giải quyết các vấn đề văn hóa –
xã hội[11].
Đại hội IX
của Đảng, vấn đề tăng trưởng kinh tế được làm rõ hơn về nội hàm đó là tăng trưởng
nhanh, hiệu quả nhưng bền vững: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”[12].
Đại hội X của Đảng khẳng định “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát
triển văn hóa, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu
phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và
thông qua phúc lợi xã hội”[13] là một trong những nội dung cơ bản của định
hướng xã hội chủ nghĩa. Coi trọng
yêu cầu nâng cao các phúc lợi xã hội cơ bản của nhân dân, bảo đảm tính ưu việt
của chế độ xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo, các đối
tượng chính sách. Để thực hiện được điều đó cần “Kết hợp các mục tiêu
kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa
phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển
kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ
và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội”[14].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011) lần đầu tiên đề ra 8
mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội. Điểm
mới trong nhận thức của Đại hội XI về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là gắn kết việc thực hiện có hiệu quả tiến bộ
và công bằng xã hội với việc bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng
chính sách phát triển. Đại hội XII của Đảng đã định hướng nội dung,
phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ở Việt Nam trong tình hình mới: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh
tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân”[15] để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn
thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Đại hội XII đã có bước tiến
mới nhận thức về quản lý phát triển xã hội, xác định các vấn đề về xã hội là
một lĩnh vực cần phải phát triển và cần phải quản lý như các lĩnh vực khác nhằm
bảo đảm thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội đầy đủ và tốt hơn.
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra 12
định hướng lớn phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, xét đến cùng tất cả các
định hướng lớn đều phản ánh định hướng và giải pháp thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội. Song, cụ thể và trực tiếp thể hiện ở định hướng thứ năm là: “Quản
lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh
con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa,
đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế,
chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo
đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an
sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân”[16].
Định hướng trên là sự triển khai cụ thể hóa một trong mười
mối quan hệ lớn mà Đảng ta đã chỉ ra, “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường”[17]. Đại hội XIII nhấn mạnh tập
trung nắm vững và xử lý tốt 10 mối quan hệ lớn. Mỗi một quan hệ lớn bao hàm hai
mặt của một chỉnh thể thống nhất. Điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII là yêu
cầu trong nhận thức và giải
quyết các quan hệ lớn, cần chú trọng hơn đến định hướng xã hội chủ
nghĩa; quan hệ sản xuất; bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa; độc lập tự chủ và quyền
làm chủ của nhân dân; và “phát triển
văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”[18].
Như vậy, trong mối quan hệ: “giữa
tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường”, gồm hai mặt:
“tăng trưởng kinh tế” và “phát
triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”
thì chú trọng hơn đến “phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội và bảo vệ môi trường”. Đây
là sự kiên định những giá trị cốt lõi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn. Cùng với khẳng định định hướng
xã hội chủ nghĩa trong quản lý phát triển xã hội, Đại hội XIII nhấn mạnh các điểm
mới về tính bền vững và đổi mới cơ chế, phát huy các nguồn lực trong thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội.
Đại hội XIII đã xác định nhiệm vụ trọng tâm, đây là sự phát triển mới của
Đảng trong văn kiện Đại hội. Đại hội khẳng định thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là
một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ và thời gian tiếp theo: “Khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người
Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính
sách cụ thể phát triển văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính
sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ
trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao
chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.”[19].
Định hướng nhiệm vụ trên vừa thể hiện sự phát triển về tư duy, sự tiếp thu
những thành tựu nhân loại và khẳng định những thành tựu đất nước cho phép và
yêu cầu chúng ta thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh
phúc của con người Việt Nam.
Đại
hội đã đề ra những mục tiêu cụ thể: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế
(GDP) bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5
- 7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD[20], đến năm 2030 đạt khoảng
7.500 USD/người[21].
Đến năm 2025, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng
25%; tỉ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị
năm 2025 dưới 4%; tỉ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5% hằng năm; có
10 bác sĩ và 30 giường bệnh/1 vạn dân; tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân
số; tuổi thọ trung bình khoảng 74,5 tuổi; tỉ lệ xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới
khoảng 75%, trong đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu[22].
Đến năm 2030, duy trì chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,7; Tuổi thọ
bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khoẻ đạt tối thiểu 68 tuổi; Tỉ
lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%; Lao động làm việc
trong khu vực nông nghiệp giảm xuống dưới 20% trong tổng lao động nền kinh tế[23].
Sự phát triển về nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và
bảo vệ môi trường trong thời gian vừa qua là rất to lớn, toàn diện. Những kết
quả đó, một mặt là hệ quả trực tiếp của đường lối đổi mới của Đảng về phát
triển văn hóa, quản lý phát triển xã hội trong thời gian vừa qua, mặt khác, trở
thành nguồn vốn xã hội, nguồn lực nội sinh cho sự tăng trưởng kinh tế, xây dựng
và phát triển đất nước./.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập
21, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2002, tr.932.
[2] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 420.
[3] Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,
tr.420.
[4] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập,
tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2007, tr.139.
[5] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập,
tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2007, tr.139.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007,
tr.160.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.53.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.47.
[9] Đảng
Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.85.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr.92
[11] Đảng
Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.205.
[12] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.162.
[13] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.77-78.
[14] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.101.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.299.
[16] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.330.
[17] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.333.
[18] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.334.
[19] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.336.
[20] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.327.
[21] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.218
[22] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.327-328.
[23] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.219.
Việt Nam có tốc độ phát triển rất nhanh so với các nước khác
Trả lờiXóa