Sự khác nhau về điều
kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, đã quy định nét đặc thù, sự khác nhau căn bản
giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây.
Về loại hình triết
học, triết học phương Đông là loại hình triết học chính trị - xã hội, đạo đức,
tôn giáo. Ngay từ đầu những nhà triết học phương Đông đã lấy con người và xã
hội làm trung tâm và đối tượng nghiên cứu chủ yếu nhằm giải quyết các vấn đề về
chính trị, đạo đức, tôn giáo và về đời sống tâm linh của con người, triết học
nhấn mạnh mặt thống nhất mối quan hệ con người với vũ trụ. Triết học phương Tây
thường gắn chặt với khoa học tự nhiên, lấy giới tự nhiên làm đối tượng nghiên
cứu, chinh phục, Triết học chú trọng nghiên cứu về các phương diện: bản thể
luận, nhận thức luận. Vấn đề con người được bàn tới cũng chỉ nhằm để giải thích
thế giới.
Trong thế giới quan
của triết học phương Đông có sự đan xen giữa duy vật và duy tâm, không rõ ràng
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm không gay gắt, quyết liệt. Các trào lưu học thuyết triết
học phương Tây duy vật vô thần, duy tâm và siêu hình được thể hiện rõ nét, sự
phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học: duy vật và duy tâm, biện
chứng và siêu hình, vô thần và có thần ngay từ thời cổ đại, cho nên cuộc đấu
tranh giữa các trường phái triết học diễn ra gay gắt và quyết liệt hơn ở phương
Đông.
Tư duy triết học, ở
phương Đông tư duy triết học thường khái quát, thâm thuý, ít tư biện, ít bút
chiến, phê phán. Tư tưởng triết học thường được trình bày xen kẽ hoặc ẩn dấu
ngay trong những vấn đề chính trị –xã hội, đạo đức, các giáo lý tôn giáo, nghệ
thuật ... ít có những triết gia và tác phẩm triết học độc lập. Tư duy triết học
phương Tây thường thiên về lý luận, tư biện, tính bút chiến phê phán cao. Tri
thức triết học được hình thành và có tính độc lập tương đối sớm.
Trong triết học phương Đông sự phân kỳ không rõ
ràng, ít có bước phát triển nhảy vọt về chất, có tính vạch thời đại. Các nhà
triết học sau thường kế thừa, cải biến, phát triển mở rộng, làm sáng tỏ sâu sắc
thêm những tư tưởng của các trường phái triết học trước. Trong lịch sử triết học phương Đông không
diễn ra một cuộc cách mạng triết học nào. Trong khi ở phương Tây lại thường xuất hiện những trường phái, hệ thống
triết học mới phủ định các tư tưởng của các trường phái triết học trước đó.
Về hệ thống thuật ngữ
triết học. Nếu triết học phương Tây thường
trực tiếp sử dụng các thuật ngữ triết học thì
các thuật ngữ triết học phương
Đông lại ẩn trong các thuật ngữ chính trị xã hội. Khi triết học phương Đông sử dụng các thuật ngữ: “động”, “tĩnh”, “biến
dịch”, “vô thường”, “vô ngã”,“đạo”, “lý”... thì triết học phương Tây lại sử
dụng các thuật ngữ: “biện chứng”, “siêu hình”, “thuộc tính” “quy luật”, “liên
hệ”…
Về các triết gia, ở
phương Đông nhà triết học thường là những nhà hiền triết, đạo sĩ thông qua việc
làm quan, truyền đạo để xây dựng nên học thuyết triết học của mình. Trong
khi các nhà triết học phương Tây, thường
là những nhà khoa học tự nhiên, thông qua nghiên cứu toán học, vật lý học, tâm
lý học, lô gíc học, thiên văn học …mà họ xây dựng học thuyết triết học.
L.M
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét