Thứ Hai, 26 tháng 9, 2016

PHÂN BIỆT TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY



Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá,  đã quy định nét đặc thù, sự khác nhau căn bản giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây.
Về loại hình triết học, triết học phương Đông là loại hình triết học chính trị - xã hội, đạo đức, tôn giáo. Ngay từ đầu những nhà triết học phương Đông đã lấy con người và xã hội làm trung tâm và đối tượng nghiên cứu chủ yếu nhằm giải quyết các vấn đề về chính trị, đạo đức, tôn giáo và về đời sống tâm linh của con người, triết học nhấn mạnh mặt thống nhất mối quan hệ con người với vũ trụ. Triết học phương Tây thường gắn chặt với khoa học tự nhiên, lấy giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu, chinh phục, Triết học chú trọng nghiên cứu về các phương diện: bản thể luận, nhận thức luận. Vấn đề con người được bàn tới cũng chỉ nhằm để giải thích thế giới.
Trong thế giới quan của triết học phương Đông có sự đan xen giữa duy vật và duy tâm, không rõ ràng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không gay gắt, quyết liệt. Các trào lưu học thuyết triết học phương Tây duy vật vô thần, duy tâm và siêu hình được thể hiện rõ nét, sự phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học: duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và có thần ngay từ thời cổ đại, cho nên cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học diễn ra gay gắt và quyết liệt hơn ở phương Đông.
Tư duy triết học, ở phương Đông tư duy triết học thường khái quát, thâm thuý, ít tư biện, ít bút chiến, phê phán. Tư tưởng triết học thường được trình bày xen kẽ hoặc ẩn dấu ngay trong những vấn đề chính trị –xã hội, đạo đức, các giáo lý tôn giáo, nghệ thuật ... ít có những triết gia và tác phẩm triết học độc lập. Tư duy triết học phương Tây thường thiên về lý luận, tư biện, tính bút chiến phê phán cao. Tri thức triết học được hình thành và có tính độc lập tương đối sớm.
Trong  triết học phương Đông sự phân kỳ không rõ ràng, ít có bước phát triển nhảy vọt về chất, có tính vạch thời đại. Các nhà triết học sau thường kế thừa, cải biến, phát triển mở rộng, làm sáng tỏ sâu sắc thêm những tư tưởng của các trường phái triết học  trước. Trong lịch sử triết học phương Đông không diễn ra một cuộc cách mạng triết học nào. Trong khi ở phương Tây lại  thường xuất hiện những trường phái, hệ thống triết học mới phủ định các tư tưởng của các trường phái triết học trước đó.
Về hệ thống thuật ngữ triết học. Nếu triết học phương Tây thường  trực tiếp sử dụng các thuật ngữ  triết học thì  các thuật ngữ  triết học phương Đông lại ẩn trong các thuật ngữ chính trị xã hội. Khi triết học phương Đông  sử dụng các thuật ngữ: “động”, “tĩnh”, “biến dịch”, “vô thường”, “vô ngã”,“đạo”, “lý”... thì triết học phương Tây lại sử dụng các thuật ngữ: “biện chứng”, “siêu hình”, “thuộc tính” “quy luật”, “liên hệ”…
Về các triết gia, ở phương Đông nhà triết học thường là những nhà hiền triết, đạo sĩ thông qua việc làm quan, truyền đạo để xây dựng nên học thuyết triết học của mình. Trong khi  các nhà triết học phương Tây, thường là những nhà khoa học tự nhiên, thông qua nghiên cứu toán học, vật lý học, tâm lý học, lô gíc học, thiên văn học …mà họ xây dựng  học thuyết triết học.

                                                                                                                L.M

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét