Những nhân tố qui
định sự hình thành, phát triển tư tưởng về sức mạnh cộng đồng dân tộc Việt Nam
Là một quốc gia nằm ở
Đông nam châu Á, với hơn 3000 km bờ biển chạy dọc từ bắc đến nam, vị trí ấy đã
đem đến cho Việt Nam một đới khí hậu nhiệt dưới gió mùa. Vị trí địa lý và
đới khí hậu ấy vừa tạo ra những điều
kiện thuận lợi vừa gây ra những khó khăn
thử thách đối với đời sống sinh hoạt, sản xuất, dựng nước và giữ nước của nhân
dân Việt Nam. Cho nên, ngay từ buổi ban đầu
các thế hệ người Việt Nam đã phải liên tục đương đầu với nắng lửa bão
giông, phải chống lại các thế lực xâm lược phương Bắc hùng mạnh. Để tồn tại
phát triển, phải chiến thắng mọi thiên tai, địch hoạ. Bởi thất bại, khuất phục
là đồng nghĩa với không tồn tại, là bị đồng hoá, xoá tên. Do vậy, chỉ có chỉ có
sức mạnh của cả cộng đồng, chỉ có sự
chung lưng, đấu cật của mọi người, mọi giai tầng xã hội, không phân biệt đẳng
cấp, chính kiến, tín ngưỡng, tôn giáo mới đủ sức chiến thắng các thế lực xâm
lược cường bạo, ngăn cản những cơn cuồng nộ của thiên nhiên. Đây chính là chân
lý thật giản dị và cũng là lý do giải thích vì sao thực thể cộng đồng người
Việt sớm được hình thành, những người
dân đất Việt sớm ý thức được sức mạnh cộng đồng.
Nội dung triết học về
sức mạnh cộng đồng dân tộc trong tư tưởng Việt Nam thời kỳ phong kiến thể hiện ở những quan điểm sau:
Dựa vào dân, vào quần
chúng nhân dân, làm cho mỗi người
dân thành một chiến sĩ tham gia vào cuộc chiến đấu chống quân xâm lược. Đây là
tư tưởng triết học cơ bản thể hiện một
tầm nhìn cao sâu, khái quát nhất,
đặt cơ sở nền tảng chi phối, định hướng mọi kế sách, mọi con đường, biện
pháp khơi dậy. qui tu, phát huy cao nhất sức mạnh cộng đồng trong toàn bộ sự
nghiệp dựng, nước giữ nước của dân tộc, nhất là trong những thời điểm khó khăn
ác liệt nhất.
Nhận thức đúng của
sức mạnh cộng đồng và tìm mọi con
đường, biện pháp để xây dựng, phát triển
sức mạnh cộng đồng. Không chỉ dựa vào dân, tư tưởng triết học Việt Nam còn thể
hiện ở việc nhận rõ vai trò to lớn của
nhân dân của cộng đồng đối với sự thành bại của chiến tranh, sự tồn vong của
chế độ. Đây vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nền triết học
Trung Quốc vừa là kết quả của quá trình suy tư, phát hiện, tổng kết từ những
kinh nghiệm thực tiễn trong lịch sử dân tộc của những nhà tư tưởng tiến bộ Việt
Nam. Nên, nếu như Trần Quốc Tuấn đã rút ra kế sách giữ nước cơ bản nhất là
“khoan thư sức dân ”, thì Nguyễn Trãi cũng khẳng định “ đẩy thuyền là dân mà
lật thuyền cũng là dân” là một chân lý hoàn toàn đúng đắn. Hơn nữa, tư tưởng
triết học Việt Nam còn chỉ ra phải tìm mọi cách để khơi dậy, phát triển sức
mạnh cộng đồng; để đoàn kết được trên
dưới; vua , tôi; anh; em; để “cả nước chung sức”, “bốn phương manh lệ một nhà”.
Một biểu hiện quan
trọng trong tư tưởng triết học Việt Nam về sức mạnh cộng đồng là coi trọng sức mạnh ý chí, tinh thần của nhân
dân, khơi dậy cái tinh thần quật cường “muốn cỡi cơn sóng mạnh diệt cá kình
giữa biển khơi ”, cái khí phách “thà làm
quỉ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” qui tụ đúc kết cái ý chí
“giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh ” thành “chúng chí thành thành” thành bức thành
đồng, vách sắt bảo vệ vững chắc
non sông đất nước.
Đặc điểm nổi bật của
tư tưởng triết học Việt Nam về sức mạnh cộng đồng trong thời kỳ phong kiến là đã thể hiện khá sâu sắc quan duy vật lịch sử
trong xem xét, giải quyết đúng mối quan hệ giữa lợi ích và sức mạnh cộng đồng. Trong đó, lợi ích
là nguồn gốc động lực của sức mạnh cộng đồng, ngược lại sức mạnh cộng đồng lại
là cội nguồn đem lại lợi ích cho nhân dân lao động.
Nguyễn Trãi, một trong những đại biểu xuất
sắc nhất của tư tưởng tiến bộ Việt Nam
thời kỳ phong kiến đã chỉ rõ, tình cảm gắn bó keo sơn, như ruột thịt giữa những
người lãnh đạo với quần chúng nhân dân, giữa người chỉ huy với quần chúng binh
sĩ như một kết quả tất yếu được hình
thành từ lòng quan tâm chu đáo đáp ứng lợi ích thiết tha của nhân dân. Ông
viết: “Tướng sĩ một lòng phụ tử hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”.Trần Quốc
Tuấn chỉ ra tác động to lớn của sức mạnh cộng đồng đến lợi ích của quần chúng
binh sĩ. Ông chỉ rõ: nếu mọi người không
đồng tâm, gắng sức chống giặc Nguyên Mông thì không chỉ “điền trang thái ấp”
của những tướng lĩnh không còn mà “bổng lộc” của quần chúng binh sĩ cũng mất.
Kiên trì đấu tranh
với những quan điểm tiêu cực, phủ nhận, coi nhẹ vai trò của quần chúng nhân dân
cũng là đặc điểm của tư tưởng triết học về sức mạnh cộng đồng trong thời kỳ
phong kiến Việt Nam. Nội dung, hình thức, biểu hiện của đặc điểm này ở mỗi thời
kỳ lịch sử không giống nhau, nhưng đều tác động rất lớn đến nhận thức, xây
dựng sức mạnh cộng đồng từ đó ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng đoàn kết dân tộc, đến sự nghiệp dựng nước và
giữ nước.
Tư tưởng triết học về
sức mạnh cộng đồng là cơ sở lý luận khoa
học, xây dựng nên truyền thống đoàn kết, tạo nên sức mạnh vô địch giúp dân tộc
ta trường tồn, lập nên những kỳ tích trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Ngày nay, đứng trước những khó khăn thách thức vô cùng to lớn của thời kỳ mới,
chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu phát huy tư tưởng triết học quí báu đó, xây
dựng khối đoàn kết toàn dân tộc ngày thêm vững mạnh, góp phần xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
L.M
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét