Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

Cơ sở lý luận, thực tiễn xây dựng nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng


Toàn cảnh khai mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII - Nguồn: baoquocte.vn

Xây dựng, ban hành nghị quyết là một phương thức lãnh đạo chủ yếu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
1- Xây dựng, ban hành nghị quyết - yêu cầu phổ biến đối với các đảng chính trị
Bất cứ một đảng chính trị nào, từ khi chuẩn bị thành lập cho đến suốt quá trình hoạt động, đều phải chú trọng đến việc xây dựng, ban hành các văn kiện chính trị với các thể thức, mức độ khác nhau tùy thuộc vào yêu cầu nhiệm vụ, điều kiện lịch sử cụ thể. Văn kiện chính trị đó có thể là cương lĩnh, tuyên bố, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, kết luận... của đại hội đảng hoặc của cơ quan lãnh đạo của đảng - gọi chung là nghị quyết đảng.
Các nghị quyết đảng là văn kiện chính thống của đảng chính trị thể hiện mục tiêu phấn đấu của đảng; bản chất giai cấp; những quan điểm, nguyên tắc, phương châm, quy định về tổ chức và hoạt động của đảng; phương hướng, nhiệm vụ hoạt động của đảng trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng - những quyết sách chính trị. Nghị quyết đảng là tuyên ngôn, thông điệp chính trị khẳng định vị thế của đảng; là nền tảng tư tưởng chính trị để đoàn kết, thống nhất lực lượng của đảng; là ngọn cờ định hướng tư tưởng, hành động của đảng mà tất cả đảng viên của đảng phải thấm nhuần, thực hiện. Nghị quyết của đảng chính trị cũng là cương lĩnh tuyên truyền nhằm tranh thủ tập hợp lực lượng dân chúng tham gia trận tuyến cách mạng do đảng lãnh đạo.
Nội dung nghị quyết của các đảng chính trị rất đa dạng, đề cập đến nhiều vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... phù hợp với yêu cầu, điều kiện hoạt động và vị thế của đảng trong đời sống chính trị của một quốc gia cụ thể.
Mức độ, hiệu quả đưa văn kiện chính trị vào hoạt động thực tiễn, tạo ra những chuyển biến tích cực trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của một quốc gia chính là thước đo tính đúng đắn của các quyết định chính trị, phản ánh bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của đảng chính trị. Đây chính là nhân tố quyết định uy tín, vị thế của đảng chính trị trong cộng đồng dân tộc và trong quan hệ chính trị khu vực, quốc tế.
Đúc kết bài học cầm quyền của Đảng Hành động nhân dân Xin-ga-po, Thủ tướng Lý Quang Diệu nhấn mạnh hai vấn đề mấu chốt: Tài sản lớn nhất của chúng tôi là sự tín nhiệm và lòng tin cậy của nhân dân. Chúng tôi cẩn thận không để lãng phí niềm tin vừa mới giành được này do cai trị tồi và tham nhũng. Một tài sản quý giá khác mà chúng tôi có là những người dân cần cù, tiết kiệm và ham học hỏi. Điều cốt yếu là phải gìn giữ tình đoàn kết trong một xã hội đa ngôn ngữ, đa văn hóa, đa tôn giáo. Những tài sản quý giá mà Lý Quang Diệu đúc kết chính là sự phản ánh sinh động tính đúng đắn và sức mạnh trong những quyết sách xây dựng đất nước của Đảng Hành động nhân dân Xin-ga-po.
2- Xây dựng, ban hành nghị quyết - phương thức lãnh đạo quan trọng hàng đầu của đảng cộng sản
Khác với các đảng chính trị khác, đảng cộng sản là chính đảng theo đuổi mục tiêu chính trị triệt để nhất: đấu tranh nhằm xóa bỏ mọi chế độ áp bức, bất công; giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người; xây dựng chế độ xã hội cộng sản - chế độ xã hội tiến bộ nhất, không phải chỉ ở một quốc gia mà trên phạm vi toàn thế giới. Sự nghiệp cách mạng mà đảng cộng sản phấn đấu là sự nghiệp mới mẻ, lâu dài, gian khổ và vô cùng phức tạp. Sự nghiệp vĩ đại này đòi hỏi những người cộng sản, trước hết là những lãnh tụ cộng sản, phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng, thực hiện các quyết sách chính trị đúng đắn - nói giản dị là ban hành các nghị quyết đảng đúng đắn.
Năm 1848, để cổ vũ, dẫn dắt phong trào cách mạng vô sản, phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực đối lập, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã công bố văn kiện chính trị quan trọng “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Văn kiện chính trị lịch sử này đã thức tỉnh, cổ vũ giai cấp vô sản toàn thế giới liên hiệp lại; trở thành ngọn cờ tư tưởng dẫn dắt cuộc đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt của giai cấp công nhân, nhân dân lao động chống chủ nghĩa tư bản.
V.I. Lê-nin kế thừa, phát triển tư tưởng cách mạng của C. Mác, Ph. Ăng-ghen trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Ông là lãnh tụ cách mạng đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, ban hành các nghị quyết của Đảng Bôn-sê-vích, xem đó là phương thức lãnh đạo đặc biệt quan trọng của Đảng, trực tiếp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhất là khi Đảng đã trở thành đảng cầm quyền. Người chỉ rõ: Không thể có một đảng xã hội chủ nghĩa vững mạnh, nếu không có lý luận cách mạng để đoàn kết tất cả những người xã hội chủ nghĩa lại, để họ rút ra từ trong lý luận đó tất cả những tín điều của họ và đem áp dụng lý luận đó vào những phương pháp đấu tranh và phương sách hành động của họ. Sau Cách mạng Tháng Mười, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng Nhà nước Xô-viết và chế độ xã hội mới, V. I. Lê-nin nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền và những quyết định do đại hội của đảng thông qua là những điều mà toàn nước Cộng hòa phải tuân theo”(1); “Nhiệm vụ của chúng ta là chỉ định những đường lối nguyên tắc và nêu ra khẩu hiệu”(2).
3- Lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương thông qua việc ban hành các nghị quyết - phương thức lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp, thường xuyên là Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Là người sáng lập, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức tầm quan trọng đặc biệt của lý luận cách mạng: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”(3).
Trong quá trình chuẩn bị tiền đề chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kinh nghiệm phong trào cách mạng quốc tế, vận dụng, phát triển sáng tạo vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, xây dựng đường lối cứu nước, lấy đó làm cơ sở tiến hành tuyên truyền cách mạng, giáo dục, đào tạo cán bộ cách mạng. Đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc chính là nền tảng tư tưởng để Đảng Cộng sản Việt Nam sau khi ra đời xây dựng, phát triển đường lối cách mạng.
Bàn về vai trò lãnh đạo của Đảng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng của Cương lĩnh, đường lối cách mạng - mà Người gọi là Đảng cương. Người chỉ rõ: “Đảng cương là một văn kiện nó quy định: tính chất của Đảng, mục đích đấu tranh và đường lối cách mạng của Đảng, phương pháp lãnh đạo cách mạng của Đảng. Đảng cương là lý luận nền tảng, Đảng dùng để lãnh đạo cách mạng. Nó đảm bảo cho chính trị thống nhất, tư tưởng thống nhất của Đảng. Vì vậy, mỗi đảng viên nhất định phải thừa nhận và theo đúng Đảng cương. Nếu không vậy, thì tư tưởng sẽ rối loạn, ý kiến sẽ lung tung. Đảng sẽ yếu đuối, rời rạc, không làm được gì”(4).
Ban Chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan lãnh đạo của Đảng do Đại hội Đảng bầu ra, có trọng trách lãnh đạo công việc của toàn Đảng giữa 2 kỳ đại hội Đảng. Nhiệm vụ quan trọng trước hết và xuyên suốt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa là xây dựng, ban hành các nghị quyết để cụ thể hóa, phát triển Đảng cương, chính cương, văn kiện các kỳ đại hội của Đảng, trên cơ sở đó, chỉ đạo tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng được xác định trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Tổng kết 80 năm lãnh đạo cách mạng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đúc kết: “lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn”(5) thể hiện trong các nghị quyết đảng chính là nội dung cốt yếu trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Tùy tình hình, điều kiện, yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng, việc xây dựng, ban hành các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng có điểm khác nhau. Lược lại những nghị quyết mà Ban Chấp hành Trung ương các khóa đã xây dựng và ban hành (có thể chưa thật đầy đủ và chính xác), có thể thấy, ở từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng, số lượng các nghị quyết Trung ương đã ban hành, và nội dung, cách trình bày kết cấu, ngôn từ... các nghị quyết có thể khác nhau, nhưng tựu trung, các nghị quyết Trung ương, dù thuộc loại hình nghị quyết tổng hợp hay chuyên đề, dù dài hay ngắn, đều có những tiêu chí chung, phản ánh những vấn đề chung. Một là, kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện các nghị quyết đã ban hành trước dó; chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, phân tích nguyên nhân, rút ra bài học/kinh nghiệm. Hai là, dự báo tình hình, những nhân tố sẽ tác động đến cách mạng Việt Nam nói chung, đến các vấn đề, lĩnh vực cụ thể được đưa ra xem xét, phân tích nói riêng. Ba là, xác định mục tiêu (chung và cụ thể); tư tưởng chỉ đạo (hoặc quan điểm); những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp lớn ở tầm định hướng chiến lược cần triển khai trong giai đoạn mới. Bốn là, phân công trách nhiệm tổ chức triển khai quán triệt, thực hiện nghị quyết. Ở những mức độ khác nhau, nhìn chung, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương các khóa có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng. Các nghị quyết Trung ương được chuẩn bị nghiêm túc trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đã góp phần phát triển tư duy lý luận, hoàn thiện đường lối, quan điểm của Đảng; tạo sự thống nhất nhận thức trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; định hướng, dẫn dắt và cổ vũ hoạt động thực tiễn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, góp phần quan trọng tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa trọng đại trong lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng Việt Nam.
Đồng thời với những thành công, việc xây dựng, ban hành các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương cũng còn những hạn chế, bất cập. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng đã chỉ rõ: “Chưa khắc phục được tình trạng ban hành nhiều nghị quyết; một số nghị quyết nội dung thiếu khả thi, chưa tính kỹ nguồn lực và điều kiện, chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết; một số nghị quyết chậm đi vào cuộc sống”(6). Những hạn chế, khuyết điểm trong xây dựng, ban hành nghị quyết Trung ương nêu trên đòi hỏi phải được khắc phục sớm. Đây là nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách, nhất là trong điều kiện tình hình khu vực, quốc tế đang có những diễn biến phức tạp, sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức nghiêm trọng và phải giải quyết nhiều yêu cầu mới.
Căn cứ lý luận, thực tiễn và yêu cầu nâng cao chất lượng xây dựng nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng rút ra 5 bài học, trong đó bài học thứ nhất là: “phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. Bài học thứ ba là: (...) tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra”(7). Hai bài học này có ý nghĩa quan trọng đối với việc tiếp tục đẩy mạnh đồng bộ, toàn diện công cuộc đổi mới, đồng thời có ý nghĩa sâu sắc đối với quá trình tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng nói chung, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương nói riêng, trong đó cấp thiết là nâng cao chất lượng cung cấp căn cứ lý luận, thực tiễn cho việc xây dựng nghị quyết. Vận dụng tinh thần những bài học đổi mới, có thể xác định căn cứ lý luận, thực tiễn cho việc xây dựng nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng hiện nay, như sau:
Về căn cứ lý luận:
Nói khái quát, căn cứ lý luận giúp cho việc xây dựng nghị quyết Trung ương bao gồm 4 thành tố: Chủ nghĩa Mác - Lê-nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; giá trị, truyền thống dân tộc; tinh hoa văn hóa nhân loại; kinh nghiệm quốc tế. Đây là 4 thành tố cơ bản nhất hợp thành cơ sở lý luận cho việc xây dựng nghị quyết của Đảng nói chung. Căn cứ vào tính chất, yêu cầu xây dựng nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong bối cảnh hiện nay cần thiết phải làm rõ những điểm đặc thù theo tinh thần đổi mới.
Thứ nhất, xuất phát từ tính chất, nội dung của các nghị quyết Trung ương là cụ thể hóa các văn kiện của Đại hội Đảng, do vậy căn cứ lý luận trực tiếp và quan trọng nhất cho việc xây dựng nghị quyết Trung ương là các quan điểm, định hướng lớn của Đảng được trình bày trong văn kiện đại hội. Văn kiện đại hội là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng; được chuẩn bị công phu trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Tuy nhiên, vẫn cần khắc phục hai khuynh hướng chưa đúng trong quá trình xây dựng nghị quyết Trung ương. Cụ thể là: 1- Tránh khuynh hướng xa rời, thoát ly, thậm chí bác bỏ quan điểm, nguyên tắc, định hướng đã được xác định trong các văn kiện đại hội. Khuynh hướng này dễ dẫn đến xu hướng cực đoan, xét lại, chệch định hướng, rất nguy hại cho sự thống nhất trong Đảng. 2- Tránh khuynh hướng lệ thuộc tuyệt đối vào các văn kiện đại hội, xem các văn kiện đại hội như là “khuôn vàng, thước ngọc”, như là “văn bia nhất thành, bất biến”; không được nói khác với văn kiện đại hội, dù là khác về câu chữ. Khuynh hướng này sẽ dẫn đến bảo thủ, trì trệ, biến các nghị quyết Trung ương thành các văn bản minh họa giản đơn văn kiện đại hội, không góp phần phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng và không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn rất sống động và luôn thay đổi.
Thứ hai, các nghị quyết Trung ương, dù là nghị quyết mang tính tổng hợp hay chuyên đề, đều hướng vào những vấn đề, lĩnh vực cụ thể, đòi hỏi phải trở lại, tìm hiểu, đào sâu suy nghĩ để hiểu đầy đủ, chuẩn xác hơn những chỉ dẫn, định hướng, gợi mở của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, nhất là của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiện nay, cũng cần khắc phục cả hai khuynh hướng: hoặc xem nhẹ việc nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vì cho rằng những học thuyết, tư tưởng kinh điển không còn phù hợp với thời đại mới, với xã hội hiện đại; hoặc vận dụng rập khuôn, giáo điều, máy móc từng câu chữ trong các tác phẩm kinh điển mà không tìm tòi, phát hiện, vận dụng những phương pháp tiếp cận, luận giải biện chứng và những tư tưởng khoa học, cách mạng ở tầm định hướng, dự báo.
Thứ ba, chúng ta xây dựng, bảo vệ Tổ quốc với tài nguyên lịch sử, văn hóa, với những con người mang trí tuệ, tâm hồn, tính cách, phong tục, tập quán - cả những mặt ưu việt, tinh túy, cả những mặt đã lạc hậu, lỗi thời. Truyền thống lịch sử, bản sắc và di sản văn hóa đã và đang được kế thừa, tiếp nối, chọn lọc, trao truyền và tác động thuận, không thuận đến công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Xây dựng các nghị quyết Trung ương mà không nghiên cứu, tính đến đầy đủ, cả mặt tích cực, những kinh nghiệm quý, cả những mặt trì trệ, lạc hậu từ các yếu tố lịch sử, văn hóa, con người sẽ là một khiếm khuyết lớn và nghị quyết sẽ thiếu chiều sâu, khó đi vào cuộc sống.
Thứ tư, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, những đột phá chưa từng có của cách mạng khoa học công nghiệp 4.0... làm cho các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau và ngày càng chịu sự tác động, ràng buộc và chia sẻ lợi ích, kinh nghiệm bởi những xu thế chung, giá trị chung. Giá trị khu vực, giá trị toàn cầu dần trở thành gia tài chung của các quốc gia, dân tộc. Phát triển phù hợp với điều kiện, yêu cầu, đặc điểm quốc gia, đồng thời thuận với xu hướng chung của nhân loại là định hướng khôn ngoan mà phần lớn các nước đều theo đuổi.
Là nước mới bước vào ngưỡng các nước phát triển có thu nhập trung bình thấp, Việt Nam cần tận dụng lợi thế của người đi sau. Một trong những lợi thế đó là tiếp thu, học tập có chọn lọc những tri thức, phương pháp, công nghệ tiên tiến, những trào lưu, lý thuyết hiện đại; nghiên cứu, đánh giá, vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm tốt của những nước phát triển phù hợp với yêu cầu, điều kiện đất nước.
Cần thống nhất hai vấn đề có tính nguyên tắc: Một là, tiếp thu những tri thức mới, tinh hoa của nhân loại, những kinh nghiệm thành công của các nước trong việc giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, môi trường... là yêu cầu bắt buộc trong quá trình chuẩn bị các căn cứ lý luận phục vụ xây dựng các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hai là, chọn lọc trên tinh thần phê phán khoa học và sáng tạo trong vận dụng tri thức, kinh nghiệm nước ngoài là nguyên tắc trong nghiên cứu lý luận phục vụ xây dựng nghị quyết Trung ương. Cần tỉnh táo, tránh tư tưởng vọng ngoại, sùng bái, sao chép nguyên xi các tri thức nước ngoài, áp dụng rập khuôn các kinh nghiệm quốc tế mà không xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện điều kiện, đặc điểm của đất nước. Không chú ý đến vấn đề có tính nguyên tắc này sẽ dễ mắc sai lầm siêu hình, cực đoan về phương pháp tư duy và sa vào chủ nghĩa giáo điều mới, làm cho các nghị quyết Trung ương xa rời thực tiễn, không có tính khả thi.
Về căn cứ thực tiễn:
Căn cứ thực tiễn là tổng hợp nhiều nhân tố liên quan đến hoạt động của các chủ thể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có 3 nhân tố tác động trực tiếp đến việc xây dựng nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Thứ nhất, thực trạng và những đòi hỏi khách quan của thực tiễn nhìn từ tầm lý luận.
Thực tiễn vô cùng rộng lớn, phong phú, phức tạp. Việc xây dựng nghị quyết nhất thiết phải có căn cứ thực tiễn, nhưng căn cứ đó không phải và không thể là sự phản ánh, sao chụp tất cả các bề mặt, chiều cạnh của thực tiễn, mà là sự phản ánh chiều sâu bản chất của thực tiễn: những mâu thuẫn, điểm nghẽn, những yêu cầu khách quan, những nhân tố mới nảy sinh, xu thế vận động và triển vọng phát triển... Căn cứ thực tiễn chính là những phân tích, đánh giá, tổng kết thực tiễn ở tầm lý luận. Muốn có căn cứ thực tiễn như vậy, những người làm công tác tham mưu, tư vấn giúp Ban Chấp hành Trung ương xây dựng, ban hành nghị quyết phải có phương pháp khảo sát, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn thật sự khoa học, công phu, kỹ lưỡng.
Thứ hai, lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân là căn cứ thực tiễn đặc biệt quan trọng.
Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, Ban Chấp hành Trung ương Đảng nói riêng đều đặt lợi ích của dân tộc, nhân dân lên hàng đầu; đều lấy phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân làm phương châm hành động. Nghị quyết của Đảng, của Ban Chấp hành Trung ương phải đặc biệt chú trọng hướng tới mục tiêu giải quyết những lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn căn dặn: mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”(8). V.I. Lê-nin đã từng nhấn mạnh: “trong quần chúng nhân dân, chúng ta chỉ tựa như một giọt nước trong đại dương, và chỉ khi nào biểu hiện được đúng ý nguyện của nhân dân thì chúng ta mới quản lý nhà nước được. Nếu không, Đảng cộng sản sẽ không lãnh đạo được giai cấp vô sản, giai cấp vô sản sẽ không lôi cuốn được quần chúng theo mình, và tất cả bộ máy sẽ tan rã”(9). 
Sau 30 năm đổi mới, cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp ở nước ta đã có những thay đổi rất cơ bản; lợi ích và ý nguyện của các giai tầng xã hội rất đa dạng, phức tạp, có mặt thống nhất và có những mặt khác biệt. Cần nắm chắc, phân tích đánh giá đúng sự đồng nhất và khác biệt đó để cung cấp căn cứ giúp Ban Chấp hành Trung ương ban hành các nghị quyết khả dĩ vừa đáp ứng được lợi ích, nguyện vọng tổng thể, toàn cục của xã hội, vừa định hướng giải quyết trúng và đúng lợi ích, nguyện vọng cơ bản của từng giai tầng xã hội. Công việc này thật không đơn giản, dễ dàng.
Thứ ba, điều kiện, khả năng thực tế để triển khai có hiệu quả các đường lối, chủ trương của Đảng là căn cứ thực tiễn quan trọng.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương phải hàm chứa tính hành động và có tính khả thi cao, mà điều này tùy thuộc rất lớn vào các nguồn lực thực tế của đất nước có thể bố trí, huy động được. Hiện nay, các nguồn lực đất nước còn hạn hẹp; yêu cầu đầu tư cho phát triển bền vững và bảo đảm quốc phòng, an ninh rất lớn, rất nhiều; đội ngũ cán bộ, đảng viên còn nhiều bất cập, chưa ngang tầm nhiệm vụ, nếu không tính đến, cân nhắc đầy đủ, cẩn thận điều kiện thực tế làm căn cứ xác định mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp để đưa vào nghị quyết thì ngay từ đầu nghị quyết đã thiếu khả thi, khó thực hiện. Vấn đề này đã được nêu rõ trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng.
Tuy nhiên, ngoài căn cứ lý luận, thực tiễn, chất lượng xây dựng nghị quyết Trung ương còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nổi bật là:
- Xác định hợp lý số lượng các nghị quyết Trung ương trong một nhiệm kỳ đại hội. Phải kiên quyết khắc phục tình trạng ban hành nhiều nghị quyết, dẫn đến tình trạng “nghị quyết chồng nghị quyết”, nghị quyết trước chưa kịp triển khai đã ban hành nghị quyết mới. Về vấn đề này, Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ, nhưng đến nay vẫn chưa được khắc phục.
- Xác định chủ đề, nội dung, phạm vi bao quát của nghị quyết Trung ương; phân định rõ mức độ, cấp độ, tương quan giữa nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương với nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của Chính phủ. Cần trở lại với lời chỉ dẫn của V. I. Lê-nin: “Nếu tưởng rằng đại hội này có thể giải quyết được vấn đề (kinh tế mới) thì lầm mất. Những quy định về pháp luật của chúng ta sẽ giải quyết vấn đề ấy. Nhiệm vụ của chúng ta chỉ là định những đường lối nguyên tắc và nêu ra khẩu hiệu”(10).
- Đổi mới cách kết cấu, trình bày nội dung nghị quyết theo định hướng của Đại hội XII: “thiết thực, ngắn gọn, khả thi”, rõ trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá, bảo đảm dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm.
- Đổi mới cách tổ chức xây dựng nghị quyết; tập hợp, sử dụng lực lượng chuyên gia giỏi; phát huy dân chủ, tăng cường tranh luận, trao đổi, đối thoại dân chủ trong quá trình xây dựng nghị quyết...
Đã đến lúc cần và có điều kiện để đổi mới căn bản, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
-----------------------------------------------------------
(1), (2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 43, tr. 74
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 273 - 274
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 282
(5) Văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 88
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 197
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 69
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 288
(9) V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 45, tr. 134
(10) V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 43, tr. 74
Phùng Hữu PhúNguồn: Tạp chí Cộng sản

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét