Bảo Ngọc
Đến những năm cuối thập kỷ 80, Việt Nam vẫn là một nước nghèo; nền kinh tế tăng trưởng thấp, sản xuất trì trệ; đời sống nhân dân khó khăn; tình trạng thất nghiệp và mù chữ chiếm tỷ lệ lớn trong dân cư; nhiều nhu cầu của người dân về vật chất và tinh thần chưa được đáp ứng… Mặc dù khó khăn như vậy, song các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam, được thể hiện rõ trong các chính sách phát triển đất nước của Chính phủ và được thực thi trên thực tế, đặc biệt là kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước.
Sau
hơn 20 năm Đổi mới, công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam đã đạt
được những thành tựu rất quan trọng. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao
và ổn định, bình quân 7,5%/năm. Các thành phần kinh tế được khuyến khích phát
triển, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế, đặc biệt trong vấn đề tạo
việc làm và cải thiện đời sống của người dân. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng
cao, không chỉ tạo động lực cho phát triển kinh tế mà còn giảm bớt gánh nặng
cho ngân sách nhà nước, tạo điều kiện cho Nhà nước tập trung đầu tư nhiều hơn
cho các mục tiêu ưu tiên như giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng,
phát triển nguồn nhân lực, xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ các vùng khó khăn...
Hệ
thống luật pháp của Việt Nam từng bước được bổ sung và hoàn thiện phù hợp với
sự phát triển kinh tế, xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế phải đi đôi với
phát triển hài hòa các mặt xã hội, bảo đảm cải thiện mọi mặt đời sống
của người dân. Với nhiều nội dung mới, phù hợp với thực tiễn của
cuộc sống, Hiến pháp năm 1992 và hệ thống các văn bản pháp luật như Luật
Bảo vệ Sức khỏe Người dân 1989, Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi và bổ sung năm
2002 và 2006), Luật Giáo dục 1998 (sửa đổi năm 2005), Luật Đất đai 2003, Luật
Bảo hiểm Xã hội 2006, Luật Phòng chống HIV/AIDS 2006...
đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng và tương đối đầy đủ trong việc cụ thể hóa và
thực hiện các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân. Hệ thống pháp
luật của Việt Nam trên lĩnh vực này được đánh giá là đã tiếp cận với những
chuẩn mực quốc tế và tạo tiền đề vững chắc cho công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước.
Chính
quyền địa phương được phân quyền mạnh hơn về quản lý tài chính, ngân
sách, đầu tư, y tế, giáo dục... để chủ động triển khai những chính
sách phát triển phù hợp với tình hình của địa phương mình. Các Ủy ban
Quốc gia vì Sự tiến bộ của Phụ nữ, Ủy ban Quốc gia về Người Cao tuổi, Ủy ban
Phòng chống Tham nhũng được thành lập để thực hiện chức năng tư vấn cho
Chính phủ về phương hướng và giải pháp đối với những vấn đề liên quan; tuyên
truyền, phổ biến và vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà
nước; đồng thời đôn đốc và giám sát việc thực hiện của các cơ quan chính phủ.
Các tổ chức, đoàn thể nhân dân như Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam... đóng vai trò ngày càng quan
trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của người dân.
Chính
phủ Việt Nam đang triển khai Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội 2001 – 2010,
Tầm nhìn đến 2020, lồng ghép chặt chẽ các MTTNK nhằm ưu tiên và tạo bước chuyển
mạnh trong công tác xoá đói giảm nghèo; đổi mới giáo dục và đào tạo; xây dựng
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ
người dân; giảm thất nghiệp và tạo việc làm; phát triển mạng lưới an sinh xã hội
và xây dựng kết cấu xã hội bền vững.
Giảm
nghèo toàn diện và bền vững luôn được xác định là mục tiêu xuyên suốt của quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Sau hơn 20 năm Đổi mới, mức sống
của các tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người
tăng từ dưới 200 USD/người (năm 1990) lên 1024 USD/người (năm 2008). Tỷ lệ hộ
nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia từ hơn 60% vào năm 1990 đã giảm xuống còn
13,8% năm 2008. Chuẩn nghèo quốc gia của Việt Nam từng bước được nâng lên
và đang dần tiếp cận với chuẩn nghèo quốc tế.
Nhà
nước Việt Nam coi đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển. Ngân
sách cho giáo dục tăng hàng năm, chiếm 20% tổng chi ngân sách Nhà nước. Mạng
lưới trường học được phát triển đều khắp. Năm 2000, Việt Nam công bố hoàn thành
phổ cập tiểu học, vượt trước 15 năm so với thời hạn của MTTNK. Việt Nam đang
tiến hành phổ cập trung học cơ sở. Tính đến hết năm 2007, 42/63 tỉnh thành đã
đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở. Hiện nay, Việt Nam được UNESCO xếp thứ 64/127 nước về phát triển giáo
dục.
Việt Nam tạo điều kiện để mọi người dân thụ hưởng quyền được chăm sóc sức
khỏe, ưu tiên các đối tượng phụ nữ, trẻ em và người
dân tộc thiểu số. Các chương trình, chính sách có tính chiến lược như tiêm
chủng cho trẻ em, hỗ trợ bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo
và trẻ em dưới 6 tuổi, phòng chống lao, phòng chống HIV/AIDS... đã mang lại
hiệu quả tích cực. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 58‰ (1990) xuống
còn 25,9‰ (2007), dưới 1 tuổi từ 31‰ (2001) xuống còn 16‰(2007); tỷ lệ suy dinh
dưỡng ở trẻ em chỉ còn 21,2% (2007); tỷ lệ tử vong ở phụ nữ sau sinh giảm từ
233/100.000 trẻ đẻ sống (1990) xuống 75/100.000 trẻ (2007). Hầu hết các
xã đặc biệt khó khăn tại các vùng dân tộc thiểu số đã có trạm y tế; đa số
thôn, bản có y tế cộng đồng, góp phần cơ bản ngăn chặn các bệnh dịch xã hội
hiểm nghèo, nâng cao sức khoẻ, cải thiện đời sống đồng bào.
Việt
Nam đang tích cực triển khai Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Việc làm 2006 –
2010, tập trung vào chính sách cho vay giải quyết việc làm thông qua Quỹ Quốc
gia về Việc làm và các Dự án Hỗ trợ, góp phần đẩy nhanh quá trình tìm kiếm việc
làm của người lao động. Trong 8 năm thực hiện (2001 – 2008), cả nước đã có
12,44 triệu việc làm mới, trong đó thông qua các chương trình phát triển kinh
tế - xã hội là gần 9,3 triệu, thông qua Quỹ Quốc gia về Việc làm là hơn 2,6
triệu. Kể từ 01/01/2009, lần đầu tiên Việt Nam áp dụng chính sách bảo hiểm thất
nghiệp, góp phần trợ giúp tối đa cho người lao động trong quá trình tìm kiếm
việc làm. Đây là một bước tiến bộ đáng ghi nhận của Việt Nam nếu so với các
nước có cùng trình độ phát triển.
Hiến
pháp 1992 nêu rõ công dân có quyền tham gia sáng tác, phê bình văn học, nghệ
thuật và tham gia các hoạt động văn hóa (Điều 60). Chính phủ Việt Nam không
ngừng xây dựng và triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá nhằm
đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần ngày càng cao của người dân. Bên cạnh các cơ
chế chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển cho lĩnh
vực văn hoá, Chính phủ cũng ban hành chính sách khuyến khích bảo tồn và phát
huy văn hoá truyền thống của dân tộc, nhất là của các dân tộc thiểu số, trong
đó có bảo tồn tiếng nói và chữ viết. Đến nay, Việt Nam đã xây dựng được một nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và thống nhất trong sự đa dạng của 54
dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam.
Thành công về tăng trưởng và ổn định kinh tế
trong 20 đổi mới vừa qua đã góp phần không nhỏ để đảm bảo ngày càng tốt hơn
không chỉ các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội cho mọi người dân mà còn cả các
nhóm quyền khác.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa