Kỳ Anh
Một trong những thủ đoạn của thế lực phản động và thù địch là ra sức phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong khi đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), của Đảng, Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước và nhiều Văn kiện các Đại hội Đảng đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Trước hết, thế lực phản động và thù địch đưa ra quan điểm
quy chủ nghĩa Mác-Lênin về tư tưởng “đấu tranh giai cấp là động lực phát triển
xã hội”. Về vấn đề này, phải thừa nhận, phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu
tranh giai cấp không phải là công lao của Mác. Mác từng viết: “các nhà sử học
tư sản trước tôi rất lâu đã trình bày sự phát triển lịch sử của cuộc đấu tranh
giai cấp đó, còn các nhà kinh tế học tư bản thì đã trình bày sự giải phẫu kinh
tế của giai cấp. Cái mới mà tôi đã làm ra chứng minh rằng: (1) Sự tồn tại của
các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản
xuất, (2) Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, (3) Bản thân
nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến
tới xã hội không có giai cấp”.
Như vậy, Mác không coi đấu tranh giai cấp là động lực phát
triển của xã hội nói chung mà chỉ là một động lực phát triển của xã hội có đối
kháng giai cấp mà thôi. Đấu tranh giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn lịch sử
nhất định của sự phát triển xã hội. Quan điểm khoa học về giai cấp và đấu tranh
giai cấp của chủ nghĩa Mác phản ánh một thực tế khách quan trong xã hội có phân
chia giai cấp, đó là sự đối kháng giữa các giai cấp: bóc lột và bị bóc lột,
thống trị và bị trị, áp bức và bị áp bức. Do đó, đấu tranh giai cấp trong các
xã hội này là tất yếu khách quan, góp phần thúc đẩy xã hội vận động, phát triển
lên những hình thái cao hơn. Chủ nghĩa Mác không bao giờ coi đấu tranh giai cấp
là động lực duy nhất trong xã hội có giai cấp. Ngoài động lực này, còn một loạt
động lực khác, như sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhu cầu, lợi ích, lý tưởng,
khoa học – kỹ thuật… Vì vậy không nên cường điệu động lực đấu tranh giai cấp.
Việc nhận thức và giải quyết vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp phải phù hợp
với thực tiễn, điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc và phù hợp với
từng giai đoạn của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng so sánh: ở phương Tây
đấu tranh giai cấp rất quyết liệt, còn ở phương Đông, những nước như “Ấn Độ hay
Trung Quốc về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời
Trung cổ cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như
ở đây. Hồ Chí Minh đã phê phán quan điểm giáo điều của một số người về đấu
tranh giai cấp ở Việt Nam: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra
khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để
làm cho đúng”. Chúng ta không được phép lẫn lộn quan điểm khoa học về đấu tranh
giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin với quan điểm hữu khuynh phủ nhận đấu tranh
giai cấp hoặc quan điểm tả khuynh cường điệu đấu tranh giai cấp, thiên về trấn áp
bạo lực, hoặc mượn danh đấu tranh giai cấp để đấu tố, trấn áp những người không
theo đường lối của mình, có tính chất bè phái như đã từng xảy ra ở một số nước
XHCN trước đây.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức mới về chuyên
chính vô sản và đấu tranh giai cấp. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3/1989) lần
đầu đã sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” thay cho khái niệm “hệ thống
chuyên chính vô sản” và sau này rất ít sử dụng. Về đấu tranh giai cấp, Đại hội
IX của Đảng nhận định: Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là
quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nội dung
chủ yếu của đấu tranh giai cấp giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự
nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát
triển, thực hiện công bằng xã hội; đấu tranh ngăn chặn những tư tưởng và hành
động tiêu cực, hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân
tộc, xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Đại
hội IX xác định động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn
dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực từ các thành phần kinh tế của toàn xã hội. Đến Đại hội
XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài
hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân,
là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc…
Như vậy, Đảng ta không phủ nhận đấu tranh giai cấp trong
thời kỳ quá độ, song quan niệm về đấu tranh giai cấp cũng như động lực phát
triển đất nước phù hợp hơn với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội của
đất nước, với nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ đổi mới.
Tiếp theo thế lực phản động, thù địch tuyên truyền, quy chụp
và áp đặt về cái gọi là “chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan thể hiện dưới hình thức
chủ nghĩa Mác-Lênin”, cho rằng nó đối lập với tư tưởng “đoàn kết và thống nhất
của học thuyết Hồ Chí Minh”. Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống các nguyên lý,
quy luật khoa học phản ánh những quy luật khách quan của thế giới, dựa trên
phương thức biện chứng duy vật với các quan điểm khách quan, toàn diện, phát
triển, lịch sử - cụ thể và thực tiễn chứ không phải dựa trên sự chia rẽ và cực
đoan, phiến diện.
Trước hiện thực cách mạng như vậy, nhưng cũng có ý kiến cho
rằng “ngày nay chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan làm cho Việt Nam hòa bình đã hơn
40 năm song vẫn còn bị chia rẽ”. Ý kiến này là cực đoan, phủ nhận thực tế lịch
sử. Đến ngày 30/4/1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng, miền Nam được hoàn
toàn giải phóng, đất nước được hòa bình, thống nhất. Đường lối của Đảng và Nhà
nước ta là khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, lấy lợi ích của Tổ quốc, của
dân tộc làm mẫu số chung để đoàn kết toàn dân, lấy dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh làm mục tiêu chung, làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc
cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, tôn trọng những người có ý kiến
khác, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc,
thực hiện hòa hợp dân tộc, đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tăng
cường đồng thuận xã hội, tập hợp đoàn kết mọi người vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc… Chỉ những kẻ vu khống, xuyên tạc công cuộc đổi mới, chống phá
Việt Nam, mới là lực lượng theo chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan.
Vấn đề cuối cùng mà thế lực phản động,
cơ hội chinh trị, thù địch áp đặt là quan điểm coi Đảng lãnh đạo mắc sai lầm
trong việc kiên định quá lâu mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu xô-viết của chủ nghĩa
Mác-Lênin – một mô hình lạc hậu của một hệ thống tư tưởng lỗi thời và từ lâu đã
bị xếp vào kho tàng lịch sử. Vì vậy, Việt Nam có hơn 40 năm hòa bình, thống
nhất, song đến nay vẫn trì trệ, suy thoái và hiện đang bên bờ khủng hoảng. Quan
niệm này, thực chất là phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận con đường xây
dựng CNXH của nước ta, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của
nước ta sau hơn 30 năm đổi mới.
Quan điểm cho rằng “Việt Nam kiên định quá lâu mô hình XHCN
kiểu xô-viết” là không đúng. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo từ 1986 đến nay, Đảng ta đã từ bỏ mô hình này, một mô hình có nhiều khuyết
tật, như dựa trên cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, phủ nhận kinh tế thị
trường, triệt tiêu nhiều động lực phát triển. Đảng ta đã tự phê bình sai lầm
giáo điều trong việc áp dụng mô hình Liên Xô trước đây. Tổng kết thực tiễn để
xây dựng mô hình CNXH của Việt Nam, Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011)
của Đảng ta đã xác định 8 đặc trưng của xã hội XHCN Việt Nam (1- Đặc trưng bao
quát nhất là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 2 - Xã hội
“do nhân dân làm chủ”. 3 - “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. 4 - “Có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. 5 - “Con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. 6 - “Các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”. 7 -
“Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. 8 - “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân
các nước trên thế giới”).
Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, đã có những phát
triển mới so với Cương lĩnh năm 1991, Đảng cũng xác định 8 phương hướng cơ bản
bao quát các mặt, các lĩnh vực của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong
quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản, chúng ta phải giải quyết tốt 8 mối
quan hệ lớn tồn tại khách quan trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế để
phát triển và hiện đại hóa đất nước, được Đảng ta nhận thức, khái quát hóa
thành lý luận, có giá trị và ý nghĩa to lớn, quan trọng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin ngày nay vẫn là học thuyết tiên
tiến của loài người, ngay một số học giả tư sản cũng thừa nhận. Việc đem đối
lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin để phủ nhận chủ nghĩa
Mác-Lênin là rất sai lầm về quan điểm và phương pháp, về lịch sử và lôgic. Bởi,
về mặt lịch sử tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ các giá
trị truyền thống tốt đẹp, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ
nghĩa Mác-Lênin thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn của Người. Chủ nghĩa
Mác-Lênin chính là nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu nhất hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo,
phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại mới../.
Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc và chống phá Đảng ta. Mọi người phải nêu cao tinh thần cảnh giác, tránh bị lôi cuốn vào những thông tin sai lệch của chúng
Trả lờiXóa