QĐND - Quốc hiệu của một quốc gia ở bất cứ đâu trên thế giới
cũng mang giá trị lịch sử, văn hóa và chính trị. Những cuộc cách mạng, thay đổi
chế độ xã hội nói chung thường dẫn đến thay đổi quốc hiệu.
Sự thay đổi quốc hiệu được xem như một
phần của thành quả cách mạng. Quốc hiệu của một quốc gia trong các thời kỳ lịch
sử khác nhau còn thể hiện tư duy chính trị của lực lượng cầm quyền (thường là
đảng chính trị) giành thắng lợi.
Với nhà nước Việt Nam, quốc hiệu không
phải chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn thông
qua một quy trình luật định của Hiến pháp, do Quốc hội-cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, đại diện cho toàn thể nhân dân quyết định. Thế nhưng trong làn
sóng “dân chủ trên thế giới ảo-mạng” (có tài khoản còn gọi là “dân chủ cuội”)
có người đã đòi thay đổi tên nước, từ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN)
Việt Nam trở lại tên gọi trước đây-nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Loại trừ
tính cách cá nhân (muốn thể hiện trí tuệ hơn người) cái gọi là “kiến nghị”,
"yêu cầu" trên còn ẩn chứa âm mưu gì?
Trước hết xin được lược qua các quốc
hiệu của Nhà nước Việt Nam từ khi nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám,
giành lại độc lập dân tộc, năm 1945 đến nay. Quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa do Quốc hội khóa I, nhiệm kỳ (1946-1960), quyết định. Tên gọi này kéo
dài 31 năm (1945-1976). Còn nhớ, thắng lợi của cuộc kháng chiến thống thực dân
Pháp vào năm 1954, Hiệp định Geneve (Thụy Sĩ) quy định Việt Nam tạm thời chia
làm hai miền: Miền Bắc và miền Nam. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ thế chân thực dân
Pháp cai trị dưới hình thức chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam kéo dài từ năm 1954 đến ngày 30-4-1975 cuối
cùng đã giành được thắng lợi hoàn toàn.
Vào năm 1976, do còn có sự khác biệt
nhất định về thể chế xã hội giữa hai miền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định
thực hiện cuộc Tổng tuyển cử trên cả nước. Sau cuộc Tổng tuyển cử, Quốc hội của
nước Việt Nam thống nhất ra đời. Quốc hội nhiệm kỳ mới, mở đầu từ năm 1976 đã
quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam.
Sự khác biệt giữa hai tên nước: Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước Cộng hòa XHCN Việt Nam không chỉ về ngôn từ
mà còn mang nội dung chính trị-pháp lý nhất định. Chính thể cộng hòa dân chủ
nói chung là một chế độ xã hội trong đó nguyên thủ quốc gia và cơ quan lập pháp
(Quốc hội) do nhân dân bầu ra theo thể thức bình đẳng và bỏ phiếu kín. Các quốc
gia theo chính thể cộng hòa dân chủ đều xác lập nguyên tắc quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân (hoặc xuất phát từ nhân dân). Mọi công dân đến tuổi (do pháp
luật quy định) đều được tham gia bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện từ
cơ sở đến Trung ương. Chính thể cộng hòa dân chủ là hình thức chính thể phổ
biến của các nhà nước hiện đại.
Nhìn lại lịch sử nhân loại, chế độ cộng
hòa dân chủ có nhiều mô hình. Chẳng hạn, các mô hình: Cộng hòa dân chủ chủ nô
(Aten); cộng hòa dân chủ phong kiến (ở một số nước phương Tây); cộng hòa dân
chủ tư sản... Công xã Pari là một sự kiện mở đầu cho chính thể cộng hòa dân
chủ. Tiếp đó là chế độ cộng hòa Xô viết (ra đời từ nước Nga sau Cách mạng Tháng
Mười năm 1917). Mô hình cộng hòa dân chủ còn ra đời từ cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc thoát khỏi chế độ thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc-đó là mô hình
“cộng hòa dân chủ”. Trong mô hình này có thể chế cộng hòa dân chủ của nước ta
sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ở Việt Nam, việc Quốc hội quyết định
chuyển quốc hiệu từ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam là sự khẳng định thể chế chính trị nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; khẳng
định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời gắn với
mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam.
Nói như thế không có nghĩa quốc hiệu là
bất biến. Khi nào có thể và cần thay đổi thì vẫn có thể thay đổi. Quốc hiệu mới
như thế nào thì câu trả lời dành cho đảng cầm quyền và cho cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất là Quốc hội. Ở Việt Nam, quốc hiệu nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam là sự kế thừa quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng mô hình xã hội
thì đã thay đổi. Về chính trị, đó là Nhà nước pháp quyền, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo với những quy định chặt chẽ. Điều 4, Hiến pháp 2013 quy định: “1.
Đảng Cộng sản Việt Nam-Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với
Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân về những quyết định của mình; 3. Các tổ chức của Đảng và đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Vậy, những người đòi thay quốc hiệu nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam, trở về với quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để
nhằm mục đích gì? Có "trong sáng" như họ vẫn nói hay không? Sẽ tác
động đến tư tưởng-chính trị và văn hóa của đất nước ra sao? Và cuối cùng, thực
chất của giọng điệu đề nghị thay đổi tên nước?
Trước hết, về hệ quả lý luận, sự thay
đổi tên nước như có người nêu sẽ dẫn đến “vênh” giữa nền tảng tư tưởng của Đảng
ta (đó là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) với mục tiêu đi lên xã hội
XHCN. Cần lưu ý rằng mô hình kinh tế của xã hội Việt Nam hiện nay là mô hình
“quá độ” lên xã hội XHCN. Nói cách khác về mặt logic, mô hình này chưa phải là
mô hình XHCN.
Thứ hai, về tư tưởng, chính trị, sự thay
đổi tên nước như có người nêu sẽ dẫn đến nhận thức chung của xã hội là Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thay đổi nền tảng tư tưởng, đã từ bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự thay đổi này bao gồm cả nhận thức về quyền làm chủ của
nhân dân. Từ đó, theo logic sẽ dẫn đến những hình thức đấu tranh đòi xóa bỏ thể
chế kinh tế hiện này.
Thứ ba, về khách quan, đó sẽ là sự phủ
định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người ta có thể
lập luận rằng, mô hình kinh tế xã hội hiện hữu do Đảng Cộng sản Việt Nam xây
dựng và điều hành bấy lâu nay là sai lầm... nên phải thay đổi “tận gốc”, phải
thay đổi đảng chính trị cầm quyền, đây là cái gốc của mô hình cũ.
Trong thời đại công nghệ thông tin dựa
trên nền tảng internet, mạng xã hội... hệ lụy của những sai lầm về chính trị tư
tưởng, từ nhỏ có thể trở thành những vấn đề tư tưởng chính trị phức tạp, khó
lường. Âm mưu đòi đổi quốc hiệu núp dưới vỏ bọc "chân thành", mong
muốn trở về với "tên nước do Bác Hồ đặt" thực ra là âm mưu tạo cớ để
đòi thay đổi nền tảng tư tưởng của đảng cầm quyền, phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi mục tiêu và con đường xây dựng, phát triển
đất nước mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn và đã thu được nhiều thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Thiết nghĩ, vấn đề này cần được thông
tin rộng rãi để cộng đồng, xã hội hiểu rõ bản chất của các nhà “dân chủ mạng”,
“dân chủ ảo”, “dân chủ cuội”.
TS
CAO ĐỨC THÁI
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, của cả hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên.
Trả lờiXóaHiện nay có rất nhiều kẻ phản động vì những đồng tiền dơ bẩn đã xuyên tạc và chống phá đất nước; chúng ta phải vạch trần và đấu tranh loại bỏ thủ đoạn của chúng
Trả lờiXóa