Thứ Ba, 4 tháng 1, 2022

Giá trị của tác phẩm Sửa đổi lối làm việc đối với xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay

TCCS - Những vấn đề đặt ra trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn không chỉ đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, mà còn cả trong việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay.

Bằng trái tim, khối óc tinh tường và mẫn cảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấu suốt những vấn đề đặt ra của một dân tộc vừa giành được độc lập, tự do; những khuyết điểm, chứng bệnh, thói tật tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Theo Người, “vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa, v.v.. Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ”(1). Để giải quyết tận gốc vấn đề, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định phải dựa vào sức mạnh nội sinh của dân tộc, đó là văn hóa và con người Việt Nam. Trong đó, cần đặc biệt quan tâm đến con người, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện. Chính vì vậy, dù bận trăm công nghìn việc và dành nhiều tâm trí chỉ đạo cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh, với bút danh X.Y.Z., đã viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc làm tài liệu cho tổ chức đảng các cấp và cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện, tu dưỡng. Tác phẩm hoàn thành tháng 10-1947, đề cập đến công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng; yêu cầu từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên phải sửa đổi từ tư tưởng đến hành động, bảo đảm thích ứng với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong tác phẩm không chỉ có giá trị lý luận, mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc trong việc xây dựng hệ giá trị chuẩn mực cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng và con người Việt Nam nói chung hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ giá trị lịch sử, truyền thống văn hóa, đất nước, con người Việt Nam cả những mặt mạnh và hạn chế. Chính vì vậy, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người đã chỉ ra những mặt hạn chế, khuyết điểm, chứng bệnh, thói tật tiêu cực cụ thể cùng với nguyên nhân và tác hại để cán bộ, đảng viên nghiên cứu kỹ, nhận thức rõ mà cố gắng sửa chữa. Cụ thể là:

1. Bệnh chủ quan, bệnh kiêu ngạo: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên nhân của bệnh chủ quan là: “Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông”(2)Vì chủ quan mới sinh ra bệnh kiêu ngạo, đó là “Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình”(3). Do chủ quan, kiêu ngạo nên rất sợ phê bình, Người viết: “Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác”(4); “Sợ phê bình, tức là “quan liêu hóa”, tức là tự mãn tự túc, tức là “mèo khen mèo dài đuôi””(5).

2. Bệnh hẹp hòi: Hẹp hòi là thường chỉ biết đến mình, không có tinh thần hợp tác. Hẹp hòi cùng với tính gia trưởng sẽ dẫn đến áp đặt ý muốn chủ quan của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc theo kiểu “sống lâu lên lão làng”. Hẹp hòi còn sinh ra bệnh bè phái, kéo bè kéo cánh đi đến chia rẽ, gây mất đoàn kết, làm cho bộ máy quản lý bị vô hiệu; đồng thời, sinh ra bệnh cục bộ địa phương, địa phương nào vun vén cho địa phương ấy, làm suy yếu sự hợp tác. Chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi bệnh hẹp hòi là một thứ bệnh nặng trong Đảng, sinh ra nhiều bệnh khác: “Trong, thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết. Ngoài, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, v.v., đều do bệnh hẹp hòi mà ra!”(6).

3. Bệnh khai hội: Có thể hiểu đây là bệnh hình thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là “bệnh khai hội”. Người viết: “Khai hội không có kế hoạch, không sắp sửa kỹ lưỡng, không thiết thực. Khai hội lâu, khai hội nhiều quá. Cán bộ khu về tỉnh, cán bộ tỉnh về huyện, cán bộ huyện về làng, thì khệnh khạng như “ông quan”. Lúc khai hội thì trăm ngàn lần như một… Vì vậy, mà quần chúng sợ khai hội… Đó cũng vì bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, khai hội lấy lệ, khai hội để mà khai hội, chớ nào phải vì lợi ích của quần chúng mà khai hội!”(7).

Liên quan đến bệnh “khai hội”, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra bệnh “hữu danh, vô thực” là loại bệnh: “Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch”(8). Điều đó dẫn đến hậu quả: “Thế là không làm tròn nhiệm vụ của mình. Thế là dối trá với Đảng, có tội với Đảng. Làm việc không thiết thực, báo cáo không thật thà, cũng là một bệnh rất nguy hiểm”(9).

Ngày nay, trong xã hội ta, không những bệnh hình thức vẫn chưa được đẩy lùi, mà còn có thêm bệnh phong trào. Đây là hiện tượng chạy theo người khác, ngành khác, địa phương khác một cách thiếu cân nhắc vào năng lực, điều kiện, hoàn cảnh và nhu cầu cụ thể của mỗi ngành, mỗi địa phương, do đó, thường không hiệu quả, lãng phí các nguồn lực.

4. Bệnh nể nang: Đây là thứ bệnh không dám nói thẳng, nói thật, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh. Điều này có ảnh hưởng từ văn hóa trọng tình của người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra căn bệnh này của cán bộ, đảng viên: “Vì họ hàng quen biết, bầu bạn, thân thích, anh em, cho nên lúc họ có sai lầm cũng cứ nể nang không thiết thực phê bình, thiết thực sửa đổi, sợ mất lòng”(10).

Bệnh nể nang cũng là sự thể hiện của bệnh “dĩ hòa vi quý”. Từ “dĩ hòa vi quý” đến “bệnh nể nang” cũng rất gần nhau khi xử lý công việc theo cách xuê xoa, hướng đến sự hòa thuận bằng mọi giá, vô nguyên tắc, không có chính kiến, không phân biệt phải trái, không dám đấu tranh cho lẽ phải.

5. Bệnh tham lam: Những cán bộ, đảng viên được giao giữ trọng trách lãnh đạo, quản lý, nhất là những lĩnh vực có nhiều lợi ích, nếu bản lĩnh không vững vàng dễ bị cám dỗ, dễ sinh lòng tham. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình”(11).

Ngày nay, bệnh tham lam được cho là một trong những nguyên nhân dẫn đến bệnh tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta đang chống căn bệnh này rất quyết liệt.

6. Bệnh thiếu kỷ luật: Căn bệnh này nếu xuất hiện ở đội ngũ cán bộ, đảng viên thì hậu quả nghiêm trọng và nguy hiểm là dẫn đến làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bệnh thiếu kỷ luật có nguồn gốc từ chủ nghĩa cá nhân, Người chỉ rõ: “Đã mắc bệnh cá nhân thì tư tưởng và hành động cũng đặt cá nhân lên trên. Vì thế mà việc gì cũng không lấy Đảng làm nền tảng. Mình muốn thế nào thì làm thế ấy. Quên cả kỷ luật của Đảng. Phê bình thì cốt công kích những đồng chí mình không ưa. Cất nhắc thì cốt làm ơn với những người mình quen thuộc”(12).

Bệnh thiếu kỷ luật trong Đảng là một trong những nguyên nhân chính sinh ra bệnh thiếu ý thức thực thi nghiêm pháp luật trong xã hội.

7. Bệnh cận thị: Có thể hiểu đây là bệnh tủn mủn, thiếu tầm nhìn. Bệnh này làm cho con người ta thường bỏ qua cái tổng thể, sa đà vào các tiểu tiết, nhìn thấy cái nhỏ mà bỏ qua cái lớn, nhìn thấy cái trước mắt mà bỏ qua cái lâu dài, nhìn thấy cái gần mà bỏ qua cái xa, không biết tính toán, định liệu, mọi thứ loay hoay giậm chân tại chỗ, công việc kém hiệu quả, sinh ra chủ quan, “đến đâu hay đến đó”, “nước đến chân mới nhảy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ. Thí dụ: việc tăng gia sản xuất, việc tiếp tế bộ đội thì không lo đến, mà chỉ lo thế nào để lợi dụng cơm cháy và nước gạo trong các bộ đội. Những người như vậy, chỉ trông thấy sự lợi hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi hại to lớn”(13).

8. Bệnh bệnh xu nịnh, a dua: Đối với những căn bệnh này của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn chỉ rõ: “Lại có những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái”(14). Người yêu cầu: “Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu, chống thói “trước mặt thì nể, kể lể sau lưng””(15).

9. Bệnh cá nhân: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện của bệnh cá nhân thể hiện dưới nhiều hình thức, chẳng hạn như “mặc kệ”, mà người dân đã đúc kết thành nhiều câu, như “ôm rơm rặm bụng”, “cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”, “sống chết mặc bay”, “mũ ni che tai”… Người viết: “Nghe những lời bình luận không đúng, cũng làm thinh, không biện bác. Thậm chí nghe những lời phản cách mạng cũng không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao, ai làm gì cũng mặc kệ… Gặp dân chúng thì không điều tra, không hỏi han, không tuyên truyền, không giải thích. Xem dân chúng như không có quan hệ gì với mình… Thấy những việc có hại đến dân chúng cũng mặc kệ, không khuyên răn, không ngăn cản, không giải thích”(16). Căn bệnh này càng nguy hiểm khi mà đội ngũ cán bộ, đảng viên mắc phải, bởi “mắc phải bệnh đó thì dễ đi đến chỗ để lợi ích cá nhân lên trên, để lợi ích của Đảng và dân tộc xuống dưới”(17). Người đánh giá: “Đó là thái độ của những đảng viên và cán bộ ươn hèn yếu ớt”(18).

10. Bệnh tị nạnh: Bệnh tị nạnh là không muốn cho ai hơn mình, làm triệt tiêu mọi sáng kiến, sinh ra bệnh kèn cựa, ghen ăn tức ở, đó là: “Con gà tức nhau tiếng gáy”, “Trâu buộc ghét trâu ăn”, “Không ăn được thì đạp đổ”… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nguyên nhân của thứ bệnh này là do nhiều người không hiểu rõ hai chữ “bình đẳng”: “Cái gì cũng muốn “bình đẳng”. Thí dụ: cấp trên vì công việc phải cưỡi ngựa, đi xe. Cấp dưới cũng muốn cưỡi ngựa, đi xe… Phụ cấp cho thương binh cũng muốn nhất luật, không kể thương nặng hay nhẹ. Làm việc gì, thì muốn già, trẻ, mạnh, yếu đều làm bằng nhau. Có việc, một người làm cũng được, nhưng cũng chờ có đủ mọi người mới chịu làm. Bệnh này sinh ra vì hiểu lầm hai chữ bình đẳng”(19).

11. Chống thói ba hoa: Chủ tịch Hồ Chí Minh dành hẳn phần VI của tác phẩm Sửa đổi lối làm việc để nói về việc chống thói ba hoa. Người cho rằng, đây là một trong những chứng bệnh rất nguy hiểm. Người phân tích chứng bệnh này thể hiện ở cách nói: Dài dòng, rỗng tuếch; có thói “cầu kỳ”; khô khan, lúng túng; báo cáo lông bông; lụp chụp, cẩu thả; bệnh theo “sáo cũ”; nói không ai hiểu; bệnh hay nói chữ. Cụ thể, có ba biểu hiện nặng nhất của thói ba hoa:

Một là, nói mênh mông: Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy ở một số cán bộ, đảng viên, nhất là người lãnh đạo, thường mắc căn bệnh thích nói dài, độc thoại, nói thì rất nhiều nhưng thông tin mang lại cho người nghe không có gì: “Thường thường đại biểu cấp trên đến khai hội với cấp dưới, trong lúc khai hội, chỉ một mình “ông” đại biểu, hay “bà” đại biểu nói, nói hàng hai, ba giờ đồng hồ. Nói mênh mông trời đất. Nói gì cũng có. Nhưng chỉ chừa một điều không nói đến là những việc thiết thực cho địa phương đó, những việc mà dân chúng ở đó cần biết, cần hiểu, cần làm, thì không nói đến!”(20).

Hai là, báo cáo lông bông: Đây là biểu hiện làm thì ít, nói thì nhiều, giấu đi những khuyết điểm mà chỉ nói về thành tích: “Thành công ít, thì suýt ra nhiều. Còn khuyết điểm thì giấu đi, không nói đến. Thành thử cấp trên không hiểu rõ tình hình mà đặt chính sách cho đúng”(21).

Ba là, nói không ai hiểu: Đây là biểu hiện rất nguy hiểm của thói ba hoa khi tuyên truyền mà quần chúng không hiểu: “Nhiều tờ truyền đơn, nhiều bản nghị quyết, nhiều khẩu hiệu của Đảng, mục đích và ý nghĩa rất đúng. Nhưng viết một cách cao xa, mầu mè, đến nỗi chẳng những quần chúng không hiểu, mà cả cán bộ cũng không hiểu”(22).

Có thể nói, tác phẩm Sửa đổi lối làm việc đã nêu ra hầu hết các khuyết điểm, chứng bệnh, thói tật tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên thường mắc phải và cách khắc phục. Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo, chỉ cần mắc một bệnh là hỏng việc và gây tác hại cho Đảng, cho Chính phủ và nhân dân. Chính vì vậy, Người yêu cầu: “Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”(23). Điều đó cũng có nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra vấn đề cần xây dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam trong xã hội mới.

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên cần tích cực nghiên cứu, học tập, quán triệt những chỉ dẫn của Người trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, từ đó, có những nhận thức, hành động thiết thực, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi những khuyết điểm, chứng bệnh, thói tật tiêu cực, hình thành những giá trị, chuẩn mực mới thích ứng với yêu cầu trong bối cảnh mới.

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, chúng ta vẫn còn một số hạn chế, đặc biệt là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp”(24). Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng khẳng định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”(25). Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””(26).

Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng này là do việc xây dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam còn chậm chuyển biến, chưa được các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể thật sự quan tâm, chưa được cụ thể hóa, chưa kết hợp được những giá trị văn hóa, chuẩn mực truyền thống tốt đẹp với những giá trị văn hóa, chuẩn mực mới, hiện đại, tiên tiến. Để khắc phục tình trạng này, cần phải kế thừa, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc trong xây dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ mới.

Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò quan trọng của văn hóa trong công cuộc vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Người cho rằng, động lực của kháng chiến và kiến quốc phải được tìm trong văn hóa, trong các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại; đồng thời, cần tìm trong nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của con người. Vì vậy, Người khẳng định: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”(27). Bên cạnh đó, Người cũng nhấn mạnh, mỗi cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành phải là tấm gương để mọi người noi theo: “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(28). “Mực thước” ở đây có nghĩa là cán bộ, đảng viên phải là hiện thân của những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, để làm gương và lan tỏa những giá trị văn hóa tốt đẹp đó đến mọi người.

Dưới ánh sáng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa, con người Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã chỉ rõ bản sắc văn hóa của Việt Nam: “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”(29). Đồng thời, Đảng ta xác định: Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là chủ thể sáng tạo lịch sử, là mục tiêu và động lực của đổi mới của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chủ trương xây dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người mới đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Các định hướng giá trị con người Việt Nam được nhấn mạnh trong thời kỳ đổi mới là con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

Trong giai đoạn phát triển mới, nước ta còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, như nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém; hậu quả của đại dịch COVID-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu; xu hướng già hóa dân số nhanh; tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa tăng mạnh; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh; bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Điều đó đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phải phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh văn hóa, con người Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Muốn vậy, trong xây dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam, cần phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; đồng thời, bổ sung một số giá trị mới, đi liền với loại bỏ những khuyết điểm, chứng bệnh, thói tật tiêu cực (được ghi trong ngoặc đơn), đó là: Ý thức tôn trọng pháp luật (bệnh thiếu kỷ luật); tinh thần trách nhiệm (bệnh cá nhân, mặc kệ, hữu danh vô thực); tính chuyên nghiệp (bệnh khai hội, hình thức); tinh thần hợp tác (bệnh cá nhân, tham lam, hẹp hòi); tinh thần dân chủ (bệnh chủ quan, kiêu ngạo, tỵ nạnh); tính nguyên tắc (thói ba hoa); lòng tự trọng (thói ba hoa, bệnh xu nịnh, a dua); tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm (bệnh cận thị, nể nang)(30)

Các giá trị bổ sung này đều đã có trong mỗi con người Việt Nam, vấn đề chỉ là khơi dậy và phát huy. Vì vậy, việc cụ thể hóa các giá trị truyền thống tốt đẹp và phát huy thành những giá trị chuẩn mực để giáo dục, thực hành, rèn luyện thường xuyên trong đời sống hằng ngày cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta là cần thiết, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội hiện đại, nền sản xuất công nghiệp, xu hướng phát triển kinh tế tri thức trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(31). Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng con người Việt Nam để “từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”(32).

TRẦN QUỐC DÂN
Nguyên Phó Giám đốc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

----------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 303
(2), (3), (4), (5), (6), (7), (8) (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16), (17), (18), (19), (20), (21), (22), (23)  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 273, 295, 295, 301, 276, 287, 297, 297, 288, 295, 295 - 296, 297 - 298, 301, 308, 298, 299, 304, 300, 343, 341 - 342, 344, 273
(24) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 29
(25) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 185
(26) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 92
(27) Dẫn theo: “Vì tình thế Hội nghị văn hóa toàn quốc đã bế mạc sau một ngày thảo luận”, Báo Cứu quốc, số ra ngày Thứ Hai, 25-11-1946 (số 416), tr. 1, 4
(28) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 16
(29) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 56
(30) Xem: Trần Ngọc Thêm: Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017
(31), (32) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 143

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét