Những giá trị mang tầm thời đại
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời trong bối cảnh sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản và sự lớn mạnh của giai cấp công nhân trong những thập niên đầu của thế kỷ XIX; mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng trở nên sâu sắc; giai cấp vô sản với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập cần phải có một chính đảng với một cương lĩnh khoa học làm cơ sở lý luận và thực tiễn soi đường. Thực tế đó đòi hỏi phải có lý luận mới trang bị cho phong trào công nhân, đưa phong trào này phát triển lên một giai đoạn mới. Tại Hội nghị lần thứ hai của “Liên đoàn những người cộng sản” ở Luân Đôn (Anh) tháng 11-1847, C. Mác và Ph. Ăng-ghen được giao nhiệm vụ khởi thảo một bản cương lĩnh toàn diện về lý luận và thực tiễn của Đảng cộng sản. Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản được C. Mác và Ph. Ăng-ghen hoàn thành vào tháng 01-1848 đã đáp ứng được yêu cầu đó và được tuyên truyền rộng rãi trong phong trào công nhân.
Có thể khẳng định, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là một di sản lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, đồng thời là Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong di sản lý luận của chủ nghĩa Mác, thể hiện rõ mối quan hệ hữu cơ giữa ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác là triết học mác-xít, kinh tế chính trị học mác-xít và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Lần đầu tiên trong tác phẩm này, những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác được hệ thống hóa một cách cô đọng nhất, thể hiện rõ ràng và đầy đủ nhất thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đưa ra các luận thuyết cơ bản về sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận về đảng cộng sản...
Thứ nhất, khẳng định vai trò và những thành tựu mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đạt được. C. Mác và Ph. Ăng-ghen nhận định rằng, trong lịch sử của mình, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất: “Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”(1). Trong sự phát triển của mình, thời kỳ đầu, chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sự hình thành, phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản đã phát triển lực lượng sản xuất một cách không tự giác do quá trình chạy theo giá trị thặng dư nhằm duy trì sự tồn tại, phát triển của mình, giai cấp tư sản đã tạo ra thị trường thế giới. C. Mác và Ph.Ăng-ghen nhận xét rằng: “Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ mới, giai cấp tư sản đã xâm lấn khắp toàn cầu”(2). Trong mối quan hệ hữu cơ giữa kinh tế và chính trị, mỗi bước phát triển về mặt kinh tế tạo ra một sự thích ứng về chính trị và giai cấp tư sản, thông qua việc tạo dựng nền đại công nghiệp cơ khí, phát triển thị trường thế giới, đã khẳng định, xác lập được quyền thống trị chính trị của mình đối với xã hội. Thông qua bộ máy nhà nước, giai cấp tư sản duy trì củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, tranh thủ những điều kiện tốt nhất cho giai cấp mình. Với ưu thế về hàng hóa cạnh tranh, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phá hủy cơ cấu truyền thống phong kiến của các nước lạc hậu, lôi cuốn nhiều dân tộc vào con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, “giai cấp tư sản tạo ra cho nó một thế giới theo hình ảnh của nó”.
Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản còn thể hiện ở chỗ tạo lập cơ cấu xã hội, giai cấp theo hướng hình thành các giai cấp đối địch nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản khẳng định rằng, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho mâu thuẫn cơ bản của nó trở nên sâu sắc, trầm trọng hơn, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chật hẹp, đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ sản xuất này, thiết lập chế độ xã hội mới.
Thứ hai, lý giải một cách khoa học vì sao phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản không phải là đỉnh cao nhất của quá trình phát triển của xã hội. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, chế độ sở hữu được xem xét trong quá trình phát triển của lịch sử theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho mâu thuẫn cơ bản của nó trở nên sâu sắc, trầm trọng hơn, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chật hẹp, trở thành sức cản đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất mới, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và những quan hệ người bóc lột người dựa trên cơ sở đó đã kìm hãm sự phát triển của xã hội. Vì thế, quan hệ sản xuất này cần được xóa bỏ, thiết lập chế độ xã hội mới.
Xuất phát từ kết cấu kinh tế - xã hội của chủ nghĩa tư bản, trên cơ sở phân tích các mâu thuẫn nội tại trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã khẳng định, chủ nghĩa tư bản mang tính lịch sử; phù hợp với lý luận và hình thái kinh tế - xã hội, coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bằng một chế độ xã hội cao hơn đó là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã phát triển và đề ra luận điểm chứng minh các điều kiện khách quan về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự hình thành các tiền đề chủ quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, xác định lực lượng nào và vì sao lực lượng đó có khả năng lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản. C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp thực sự cách mạng, có khả năng thực hiện cách mạng vô sản, thủ tiêu chế độ cũ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ mới - cộng sản chủ nghĩa. “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy, những công nhân hiện đại, những người vô sản”(3). Để giai cấp vô sản thực hiện được sứ mệnh đó, các nhà kinh điển khẳng định rằng, một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất của Đảng cộng sản với tư cách là lực lượng duy nhất có khả năng tổ chức lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị là “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”(4). Quan điểm này của các nhà kinh điển đã có sự kế thừa và phát triển, nếu trong Lời nói đầu tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hê-ghen”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, tuy nhiên vẫn còn là vấn đề trừu tượng. Đến tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” (1846 - 1847), C. Mác đã trình bày về sự cần thiết của việc xóa bỏ sự thống trị về kinh tế của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải giành lấy chính quyền, muốn vậy giai cấp vô sản phải chuyển biến từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “cho nó”. Điều này phản ánh sự trưởng thành, chín muồi về trình độ chính trị và tư tưởng của giai cấp vô sản thông qua việc thiết lập một chính đảng của giai cấp công nhân với tư cách lực lượng chính trị độc lập để lãnh đạo giai cấp công nhân.
Thứ ba, xác định tư tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa. C. Mác và Ph. Ăng-ghen vạch rõ bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội chỉ có thể hoàn thành thông qua những cải tạo căn bản trong quan hệ sở hữu và trong toàn bộ hệ thống các quan hệ sản xuất. Nhưng để làm được điều đó, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và giai cấp vô sản phải nắm được chính quyền. Tư tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa là nội dung cốt yếu của toàn bộ tác phẩm. Mặc dù trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen chưa dùng thuật ngữ chuyên chính vô sản, song đã khẳng định thực chất của chuyên chính vô sản là việc giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị, khẳng định tính tất yếu khách quan của việc giai cấp vô sản lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản và thiết lập quyền thống trị về kinh tế và xã hội của mình. Nhiệm vụ của chuyên chính vô sản được xác định là:
- Thủ tiêu bằng bạo lực chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và thiết lập chế độ sở hữu toàn dân. Việc xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất làm thay đổi căn bản mục đích của nền sản xuất xã hội, “thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người”.
- Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, “tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất lên”.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen chưa đặt vấn đề thời kỳ quá độ và các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội, mặc dù vậy hai ông cũng cho thấy sự cần thiết của việc thiết lập tổ chức quyền lực, bộ máy nhà nước của giai cấp công nhân trong quá trình cải tạo và xây dựng chế độ xã hội mới. Các nhà kinh điển cũng khẳng định, tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể của các nước khác nhau mà những biện pháp áp dụng sẽ phải khác nhau, không có một khuôn mẫu chung cho mọi quốc gia.
Thứ tư, đưa ra những dự báo vượt thời đại. Với bản chất cách mạng và khoa học trong học thuyết của mình, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đưa ra những dự báo thiên tài vượt thời đại và mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc, như về vấn đề cách mạng công nghiệp, sự phát triển của đại công nghiệp, thị trường thế giới. Các ông viết: “Các thị trường cứ lớn lên không ngừng, nhu cầu luôn luôn tăng lên. Ngay cả công trường thủ công cũng không thỏa mãn được nhu cầu đó nữa. Lúc ấy, hơi nước và máy móc dẫn đến cuộc cách mạng trong công nghiệp...đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới” (5).
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh tính đúng đắn của nhận định trên, thế giới đã trải qua và phát triển từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và hiện nay thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng công nghiệp 4.0). Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được xây dựng trên cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, là sự kết hợp các công nghệ làm mờ ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật và sinh học, mang đến những đột phá khoa học và tiến bộ công nghệ cho thế giới. Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn các quốc gia, dân tộc, tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng...
V. I. Lê-nin đã nhận xét: “cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng ngàn bộ sách, tinh thần của nó đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thế giới giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh”.
Thứ năm, không coi học thuyết là sự “nhất thành bất biến”, mà phải luôn được xem xét gắn với sự phát triển của thực tiễn. Các nhà kinh điển hoàn toàn không cho rằng, học thuyết của mình là hoàn thiện, bất biến, mà luôn phải có sự bổ sung, vận dụng phát triển sáng tạo trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Bởi lẽ chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, do vậy phải căn cứ vào những điều kiện lịch sử cụ thể mới có những định hướng giải pháp phù hợp. Các nhà kinh điển cũng không coi học thuyết của mình như là những câu trả lời vạn năng cho mọi tình huống của cuộc sống mà đòi hỏi phải luôn được xem xét gắn với sự phát triển của thực tiễn, với tư cách là động lực của nhận thức là tiêu chuẩn khách quan của mọi chân lý. Không đầy 25 năm sau khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, trong Lời tựa cho bản tiếng Đức, viết năm 1872, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã khẳng định, chính Tuyên ngôn cũng đã giải thích rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay
Mặc dù ra đời cách đây 170 năm nhưng những nội dung và tư tưởng của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vẫn mang ý nghĩa quan trọng, có giá trị tinh thần to lớn trong việc cung cấp thế giới quan và phương pháp luận giải quyết các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn hiện nay.
Vào những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu không còn tồn tại, một số người cho rằng lịch sử kết thúc ở chủ nghĩa tư bản, và, chủ nghĩa tư bản là tột đỉnh của văn minh nhân loại. Một số lập luận khác cho rằng, chủ nghĩa tư bản đã thay đổi về chất với các hình thức mới, với các tên gọi, như “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, “chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh”, “xã hội hậu công nghiệp”, “chủ nghĩa tư bản của người lao động”... Tuy nhiên, trên thực tế, chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi bản chất và mâu thuẫn cơ bản của nó gắn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Mặc dù tình hình thế giới thay đổi nhanh, phức tạp, khó lường, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vận động trong bối cảnh phức tạp khó khăn, trải qua nhiều thăm trầm, song loài người vẫn không ngừng tìm kiếm một chế độ xã hội mới mang lại thịnh vượng, bình đẳng, công bằng, hạnh phúc, an ninh, an toàn; cơ hội phát triển cho mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.
Ở khu vực Liên Xô - Đông Âu trước đây, đa số các đảng cộng sản, công nhân đã vượt qua thời kỳ khó khăn nhất, đấu tranh giành lại được quyền hoạt động công khai, hợp pháp, phục hồi ở các mức độ khác nhau, lấy lại uy tín, ảnh hưởng trong xã hội và trên chính trường, nỗ lực củng cố, tổ chức lực lượng, ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, trở thành một lực lượng chính trị - xã hội có ảnh hưởng nhất định. Phong trào cộng sản, công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, diễn biến phức tạp, đa dạng, tăng cường được lực lượng và ảnh hưởng. Các đảng cộng sản, công nhân tại khu vực Mỹ La-tinh vẫn có bước phát triển. Các đảng cộng sản, công nhân tại nhiều khu vực khác vẫn duy trì hoạt động, tuy ở những mức độ khác nhau, nỗ lực giành được vị trí, vai trò trong đời sống chính trị - xã hội các nước.
Về chính trị tư tưởng, hầu hết các đảng cộng sản, công nhân đều tiếp tục khẳng định mục tiêu đấu tranh là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cho rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể không phù hợp, chứ không phải là sự sụp đổ của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội. Hầu hết các đảng cộng sản, công nhân vẫn kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, đều nỗ lực xuất phát từ thực tiễn để bổ sung, phát triển về lý luận và vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước.
Kỷ niệm 170 năm ngày ra đời của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là dịp để chúng ta nghiên cứu sâu sắc thêm những nội dung quan trọng của tác phẩm này đặt trong bối cảnh thế giới hiện nay, từ đó vận dụng sáng tạo tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lê-nin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong việc đề ra chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng thành công xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trên đất nước ta, hội nhập sâu rộng với thế giới, là thành viên có tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế./.
-----------------------------------------------------------------
(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tuyển tập, t.1, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 557
(2) Các Mác: Tư bản, quyển thứ ba, t.1, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1978, tr. 456
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tuyển tập, t.1: Sđd, tr. 549
(4) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 615
(5) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập: Sđd, tr. 624
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 69
Bài rất hay
Trả lờiXóa