Nguyễn
Thanh(*)
Nguồn: Tạp chí Triết học, số 10 (209),
tháng 10 - 2008
Để làm rõ bản chất nhân văn của
triết học Mác, chủ nghĩa Mác, trước hết tác giả đã đưa ra và phân tích truyền
thống nhân văn chủ nghĩa ở châu Âu thời Cận đại. Tiếp đó, khi tập trung luận
giải bản chất nhân văn của triết học Mác, chủ nghĩa Mác, tác giả đã đi đến kết
luận rằng, C.Mác không chỉ kế thừa, mà còn phát triển chủ nghĩa nhân văn ấy lên
một trình độ mới, biến nó từ lý tưởng thành thực tiễn cải tạo thế giới. Chủ
nghĩa nhân văn của C.Mác là chủ nghĩa nhân văn hiện thực và do vậy, nó vẫn giữ
nguyên giá trị trong thời đại ngày nay.
Ảnh minh họa
Việc nghiên cứu và giảng dạy triết
học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung, việc bảo vệ và phát triển chân giá
trị của học thuyết Mác trong điều kiện của nền văn minh nhân loại ở thế kỷ XXI,
đặc biệt là trong bối cảnh tiếp biến văn hóa toàn cầu, đòi hỏi chúng ta phải
làm sáng tỏ được một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nó là bản chất
nhân văn. Mục đích duy nhất mà triết học Mác hướng tới là giải phóng con người,
đưa “con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do”. Chính các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định điều này trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản - Cương lĩnh của chủ nghĩa Mác, của toàn bộ phong trào cộng sản
chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Các ông cho rằng, mục đích cuối cùng của chủ
nghĩa cộng sản là: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người”(1). Để hiểu được bản chất nhân văn của
triết học Mác, hiểu được bước ngoặt cách mạng mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực
hiện trong dòng chảy chung của tiến trình lịch sử tư tưởng tiến bộ Tây Âu,
không có con đường nào khác hơn là khảo cứu và trình bày nó như sự kế thừa và
phát triển chủ nghĩa nhân văn châu Âu thời Cận đại, phản ánh phong trào giải
phóng con người với các quan điểm triết học đa dạng.
Trước hết, cần nhận thấy một thực
tế là, chủ nghĩa nhân văn đã và đang là một trong những đề tài gây ra nhiều
cuộc tranh luận về di sản lý luận của C.Mác. Vấn đề ở đây không chỉ liên quan
tới tính kế thừa, tính liên tục trong sự phát triển tư tưởng lý luận của
C.Mác, mà còn ở vấn đề bản chất nhân văn của chủ nghĩa Mác với tư cách một hệ
thống lý luận. Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, cũng như để chỉ ra bản chất nhân văn
kiểu mới của chủ nghĩa Mác, chúng ta cần làm rõ mối quan hệ của nó với truyền
thống nhân văn phương Tây, cụ thể là chủ nghĩa nhân văn Cận đại, cũng như
điểm mới mà C.Mác đã đem lại cho chủ nghĩa nhân văn này.
Thuật ngữ "chủ nghĩa nhân
văn" (bắt nguồn từ tiếng Latinh: humanus - con người, tính người) được
sử dụng để chỉ hệ thống quan điểm triết học lạc quan, đầy sức sống, thừa nhận
sự phát triển hài hoà của con người với tư cách giá trị tối cao và là tiêu chí
của tiến bộ xã hội. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi trong các khoa học về
con người, cũng như các khoa học xã hội mà bản thân tên gọi - khoa học xã hội
và nhân văn đã chứng tỏ cho điều đó. Xét về mặt lịch sử và về mặt thuật ngữ,
khái niệm "chủ nghĩa nhân văn" bắt nguồn từ thời Phục hưng, chính
xác hơn là từ thời Phục hưng Italia, khi mà lần đầu tiên, chủ nghĩa nhân văn
thể hiện như một thế giới quan mang hình thức tư tưởng, quy định nội dung cơ
bản của các trào lưu tư tưởng thống trị trong xã hội. Song, nếu lý giải chủ
nghĩa nhân văn theo nghĩa rộng, tức sự quan tâm sâu sắc đến con người, đến thế
giới tinh thần và mục đích sống của con người, thì nhiều hệ thống triết học
cũng đã có sự quan tâm như vậy. Theo nghĩa đó, có thể nói, tư tưởng của chủ
nghĩa nhân văn đã xuyên suốt toàn bộ lịch sử văn hoá nhân loại, tạo thành một
trong những dấu hiệu bản chất của nó.
Chúng ta có thể phân biệt các đặc
trưng chủ yếu sau đây của chủ nghĩa nhân văn Cận đại: 1) ý thức tự do tư tưởng;
2) chủ nghĩa cá nhân hoàn toàn trần tục; 3) tự do tư tưởng chủ yếu về chính
trị - xã hội và công dân; 4) tự do tư tưởng tiến bộ về phương diện lịch sử;
5) nhấn mạnh phương diện thực tiễn và đạo đức của tự do tư tưởng. Ở đây, cũng
cần phải kể tới một số đặc trưng khác, như tinh thần của Tin Lành giáo, thái
độ sẵn sàng phản kháng và đấu tranh nhằm thực hiện lý tưởng, ý thức về sự hạn
chế của mỗi con người riêng biệt.
Nhấn mạnh tính tự bộc lộ và tự khẳng
định của cá nhân, chủ nhĩa nhân văn Cận đại đã không những không loại bỏ, mà
hơn nữa, còn thường xuyên khẳng định bi kịch của con người cá thể – con người
bị hạn chế và bất lực trong tính biệt lập của nó. Ý thức được sức mạnh và yếu
điểm của cá nhân, thế giới quan của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng đã cho phép
chúng ta nói tới thời Phục hưng như một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử nhân
loại. Sức mạnh thế giới quan ấy của thời Phục hưng được thể hiện ở chỗ, nó đã
sản sinh ra và khám phá ra các xu hướng phát triển lịch sử của chủ nghĩa nhân
văn. Đó là hai trào lưu tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn đã tồn tại trong suốt
thời Cận đại cho đến tận giữa thế kỷ XIX: chủ nghĩa nhân văn cá nhân tư sản và
chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa không tưởng.
Dựa trên học thuyết về quyền tự
nhiên và “khế ước xã hội”, chủ nghĩa nhân văn cá nhân tư sản đã tuyên bố quyền
đầy đủ cho mỗi cá nhân về sự sống, tự do và khát vọng hạnh phúc. Những đại biểu
của chủ nghĩa nhân văn này, như J.Lốccơ, B.Spinôda, J.J.Russô, Đ.Điđơrô đã xem
con người như một cá nhân tự trị và coi tính tự chủ của con người như một
nguyên tắc tối cao. Ở đây, trở ngại đối với họ là vấn đề kết hợp lợi ích cá
nhân với các giá trị xã hội. Đỉnh điểm của chủ nghĩa nhân văn này là tư tưởng
cải tạo chế độ phong kiến, phục hồi chủ quyền nhân dân, thiết lập chế độ xã hội
bình quân chủ nghĩa. Với tư tưởng này, nó đã trở thành ngọn cờ lý luận cho các
cuộc cách mạng tư sản ở các nước phương Tây. Thay cho thời Khai sáng, thời
đại lãng mạn vẫn tiếp tục giữ lại những tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn cá
nhân tư sản, song đã mang một sắc thái bi kịch hơn, do không dung hợp được lý
tưởng về một cá nhân vô hạn của chủ nghĩa lãng mạn với quan hệ xã hội hiện
thực thời đó.
Cũng bắt nguồn từ thời Phục hưng và
gắn liền với chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa
không tưởng đã đặt lên hàng đầu các nguyên tắc của chủ nghĩa tập thể và tính
xã hội của con người. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội không tưởng đã
xem bản tính con người là bản tính tập thể chủ nghĩa, thể hiện ở sự lao động
trung thực và sự phân phối công bằng sản phẩm lao động. Các nhà nhân văn xã hội
chủ nghĩa không tưởng luôn đề cao quyền bình đẳng, lao động và hạnh phúc. Người
nào không lao động, theo họ, không có quyền hợp pháp trong hưởng thụ niềm vui
cuộc sống. Nguyên tắc này không cho phép bất cứ người nào có quyền tồn tại dựa
vào người khác và coi tình trạng người bóc lột người là vô đạo đức, cho dù
có những luận cứ "hợp lý" nào biện minh cho nó đi chăng nữa. Các đại
biểu của chủ nghĩa xã hội không tưởng sơ kỳ đã lên tiếng phê phán chế độ tư
hữu và kêu gọi thay thế nó bằng phúc lợi chung – cái mà theo họ, có khả năng
đem lại cho con người hạnh phúc chân thực trong sự phát triển hài hoà và có
đạo đức.
Bản chất phi nhân tính trong các
quan hệ xã hội, những mâu thuẫn kinh tế - xã hội, chính trị và tinh thần dẫn
tới sự tha hoá của con người đã trở thành cội nguồn cho cảm hứng nhân đạo chủ
nghĩa ở các nhà không tưởng. Họ kêu gọi xây dựng xã hội thành một liên hiệp
những người lao động tự do mà ở đó, áp dụng nguyên tắc lao động bắt buộc và tự
do được áp dụng, tạo điều kiện phát triển những tiềm năng sáng tạo và đạo đức
trong mỗi con người, cải biến nhà nước thành uỷ ban quản lý sản xuất, thiết
lập liên hiệp các dân tộc chung sống hoà bình: "hoặc tất cả phải được
hạnh phúc, hoặc không có ai hạnh phúc cả".
Triết học xã hội của các nhà xã hội
chủ nghĩa không tưởng đã thể hiện rõ quan điểm nền tảng của chủ nghĩa nhân văn
và chính chủ nghĩa nhân văn này cũng thể hiện bản chất sâu xa trong hệ tư tưởng
của họ. Song, chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về tiến trình lịch sử nhân loại
đã không cho phép học thuyết của họ trở thành khoa học. Chủ nghĩa xã hội không
tưởng đã không lý giải được bản chất của tình cảnh nô lệ làm thuê ở chủ nghĩa
tư bản, không phát hiện ra các quy luật phát triển của nó, không tìm ra lực lượng
xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo xã hội mới. Xuất phát từ nguyên tắc
nhân văn, nhân đạo chủ nghĩa, khát vọng xây dựng một "thiết chế" xã
hội lý tưởng đã xâm chiếm tư tưởng của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng
thay vì phải nhận thức một cách có phê phán tiến trình lịch sử nhân loại. Những
mâu thuẫn lý luận mang tính nguyên tắc trong quan điểm của các nhà xã hội chủ
nghĩa không tưởng không thể là căn cứ để phủ định rằng, chính triết học của họ
đã thực hiện một điều quan trọng đối với vận mệnh của chủ nghĩa nhân văn - hợp
nhất các khái niệm lao động, bình đẳng, công bằng và tự do.
Một giai đoạn quan trọng nữa trong
quá trình phát triển của chủ nghĩa nhân văn trước khi chủ nghĩa nhân văn của
C.Mác xuất hiện là chủ nghĩa nhân văn của L.Phoiơbắc. Kế tục truyền thống Khai
sáng, L.Phoiơbắc đã đặt vấn đề con người vào trung tâm toàn bộ hệ thống triết
học của mình. Chính con người - "đối tượng duy nhất, phổ quát, cao nhất
của triết học" - đã trở thành trung tâm trong lý luận của L.Phoiơbắc, đã
thúc đẩy ông xây dựng học thuyết nhân học triết học thấm nhuần chủ nghĩa nhân
văn. Khi chứng kiến cảnh bần cùng, sự suy thoái của cá nhân, sự triệt tiêu tư
tưởng tự do trong xã hội đương thời, tức những cái cấu thành nội dung của sự
tha hoá tinh thần, L.Phoiơbắc đã nhận thấy thực chất của sự tha hoá này là ở
chỗ, con người đã chuyển sự “tha hoá” những phẩm chất và hoài bão tốt đẹp nhất
của mình sang một thực thể lý tưởng nào đó và qua đó, làm trống rỗng tinh thần
cá nhân, biến nó thành cái phụ thuộc của cỗ máy xã hội phi nhân cách. Do vậy,
nhiệm vụ của thế giới quan nhân văn chủ nghĩa, theo ông, là phải hoàn trả lại
cho con người và cho cả nhân loại bản chất nhân văn đã bị đánh mất, đưa nó từ
thực thể siêu việt không có thật xuống thế giới xã hội hiện thực, biến con người
thành trung tâm của những chủ định lý tưởng và tuyệt đối. Nói cách khác, ông
đã thần thánh hoá con người theo lối nhân văn chủ nghĩa.
Có thể nói, chủ nghĩa nhân văn của
L.Phoiơbắc vừa cụ thể, vừa trừu tượng. Tính trừu tượng của nó được quy định
bởi việc phê phán một cách sống động, từ lập trường công dân, các hình thức
tha hoá và sự suy đồi của cá nhân trong xã hội đương thời, mà trước hết là
các hình thức tha hoá tôn giáo. Song, khi phân tích tha hoá về mặt triết học và
chỉ ra con đường khắc phục nó, L.Phoiơbắc đã đánh mất cơ sở vững chắc của chủ
nghĩa nhân văn phê phán và rơi vào lĩnh vực chủ nghĩa nhân bản trừu tượng. Ông
nhận thấy tính "thực thể "của xã hội ở cơ sở tộc loại của nó - bản
chất tình cảm, cảm xúc của con người. Theo nghĩa đó thì việc vạch ra bản chất
của con người và khắc phục sự tha hoá sẽ chỉ diễn ra ở chừng mực mà con người
có khả năng bộc lộ cơ sở tộc loại của nó, cơ sở đã ràng buộc nó với xã hội.
Chính quan niệm trừu tượng như vậy về chủ nghĩa nhân văn đã buộc L.Phoiơbắc
phải đưa ra một cá nhân trừu tượng, biệt lập và do vậy, bản chất con người ở
ông chỉ có thể được xem như "loài", như “cái chung câm điếc”, gắn
liền các cá nhân với nhau chỉ bởi những quan hệ tự nhiên.
Như đã nói trên, thái độ của chủ
nghĩa Mác đối với chủ nghĩa nhân văn đã trở thành đối tượng của những cuộc
tranh luận gay gắt. Một số học giả cho rằng, chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa nhân
văn là những loại trừ lẫn nhau. Luận cứ được đưa ra ở đây là, sau khi phê
phán chủ nghĩa nhân bản của L.Phoiơbắc, C.Mác dường như đã hoàn toàn đem mình
đối lập với truyền thống nhân văn chủ nghĩa nhiều thế kỷ của nền văn hoá châu
Âu. Số khác lại cho rằng, tinh hoa trong chủ nghĩa nhân văn C.Mác chỉ có trong
các tác phẩm đầu tay của ông và trước hết trong Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844. Theo họ, tác phẩm này được C.Mác viết dưới ảnh hưởng sâu sắc
của những tư tưởng nhân văn chủ nghĩa mà sau này, ông đã từ bỏ do tác động của
những hoàn cảnh khác nhau, sau khi cống hiến toàn bộ công sức vào việc xây dựng
học thuyết kinh tế, học thuyết đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản. Số thứ ba lại cho rằng, dường như Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844 không những là tín điều của chủ nghĩa nhân văn do C.Mác xây dựng,
nhìn chung, còn thể hiện chủ nghĩa Mác đích thực mà sau này, đã bị hoạt động
chính trị của ông làm sai lệch.
Những quan niệm như vậy đã khiến
một số người tỏ ra hoài nghi chủ nghĩa nhân văn của C.Mác sau này và lấy đó để
luận chứng cho sự tồn tại của hai ông C.Mác, một ông C.Mác theo chủ nghĩa nhân
văn đích thực và một ông C.Mác là nhà kinh tế học, một chính khách “lạnh lùng”,
“tỉnh táo”. Đương nhiên, với tư cách một nhà tư tưởng, C.Mác đã trải qua
các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng của mình. Và, Bản thảo
kinh tế - triết học năm 1844 đã cho chúng ta thấy sự phát triển tư tưởng
của C.Mác trên con đường đi tới phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử.
Nhưng, điều này hoàn toàn không có nghĩa rằng, dường như C.Mác sau này đã từ
bỏ định hướng tư tưởng và nguồn cảm hứng nhân văn chủ nghĩa vốn có ở tác phẩm
này của ông. Ngược lại, giữa các tác phẩm đầu tay và tất cả các tác phẩm sau
này của C.Mác luôn có sự kế thừa hữu cơ. Sự kế thừa này được thể hiện ở chỗ,
sau khi khắc phục chủ nghĩa nhân bản siêu hình của L.Phoiơbắc, C.Mác đã đi tới
chủ nghĩa nhân văn đích thực là ở việc phát hiện ra các quy luật khách
quan của sự phát triển xã hội, luận giải tính tất yếu khách quan của chúng và
đưa ra tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để cải tạo toàn bộ hệ thống quan
hệ xã hội, hình thành các cá nhân tự do; đồng thời phát triển sáng tạo trên cơ
sở mới chủ nghĩa tập thể. Quá trình thật sự nhân văn này, theo C.Mác, chỉ được
thực hiện trong lịch sử khi giai cấp vô sản giải phóng mình và qua đó, giải
phóng toàn thể xã hội.
Như vậy, học thuyết của C.Mác là
thống nhất, xét về bản chất tư tưởng sâu xa của nó. Chủ nghĩa nhân văn xuyên
suốt và thâm nhập khắp nơi trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844
hoàn toàn không phải là sản phẩm của L.Phoiơbắc, mà biểu thị định hướng tư tưởng
chủ đạo của C.Mác.
Như chúng ta đã biết, xuất phát
điểm trong việc C.Mác phân tích tình cảnh của người công nhân làm thuê trong
xã hội tư bản là hiện tượng tha hoá, hiện tượng đã biến người công nhân
thành phương tiện phi nhân cách của sản xuất và qua đó, phi nhân văn hoá cá
nhân. Theo C.Mác, tha hoá là hình thức biểu thị phổ biến về phương diện xã hội
tính không tương dung về lợi ích giữa nhà tư bản và người công nhân làm thuê.
Hơn nữa, quan hệ sản xuất tư bản không chỉ làm tha hoá công nhân khỏi sản phẩm
lao động, mà còn biến lao động thành cái đáng nguyền rủa, không có ý nghĩa và
nội dung nhân văn. C.Mác nhận thấy, chính tha hoá là nguồn gốc, là nội dung của
sự bóc lột cá nhân một cách phản nhân văn của chủ nghĩa tư bản, bởi nó đã làm
cho bản chất con người bị tha hoá khỏi con người: con người trở thành tác
nhân của sự phân đôi và xung đột với hiện thực và với chính bản thân mình. Một
mặt, lao động thể hiện ra là phương tiện sinh tồn và cũng là phương thức tự
bóc lột, tự thực hiện của cá nhân; mặt khác, nó không phục tùng người
sản xuất, được quản lý từ bên ngoài, trở thành không phải nhu cầu, mà là sự
trừng phạt. Người sản xuất vừa hướng tới lao động, vừa chạy trốn khỏi nó như
một lực lượng xa lạ và nô dịch họ.
Theo C.Mác, lao động bị tha hoá đã
sản sinh ra thế giới các hình thức đối tượng hoá thù địch với con người trong
đó bao gồm cả các đối tượng, các vật, các giá trị tinh thần giả dối, các quan
niệm đạo đức hủ lậu. Rốt cuộc, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã "sản sinh
ra con người không chỉ với tính cách là hàng hoá, không chỉ với tính
cách là con người hàng hoá, con người với sự quy định của hàng hoá;
nó sản xuất ra con người theo sự quy định ấy, như là một thực thể mất
tính chất người cả về mặt tinh thần lẫn thể xác"(2).
C.Mác giải thích tư tưởng này như sau: "Trong quan hệ có tính loài tự
nhiên ấy, quan hệ của con người với tự nhiên trực tiếp là quan hệ của con
người với con người, còn quan hệ của con người với con người trực tiếp là
quan hệ của con người với tự nhiên, là thiên chức tự nhiên của bản thân
con người… Từ tính chất của quan hệ đó cũng biểu lộ rõ nhu cầu của con
người đã trở thành nhu cầu con người đến mức độ nào, nghĩa là con người
khác với tính cách là con người đã trở thành nhu cầu đối với con người
đến mức độ nào, bản thân con người trong tồn tại hết sức cá nhân của mình đồng
thời cũng là một thực thể xã hội đến mức độ nào”(3). Nói cách khác, quan hệ của
con người với người khác trở thành thước đo sự trưởng thành về bản chất đạo
đức và nhân đạo của cá nhân. Khi đó, quan hệ “con người - con người” là hình
thức biến hoá của quan hệ "con người - lao động", bởi "những
điều có thể nói về quan hệ của con người với lao động của mình, với sản phẩm
lao động của mình và với bản thân mình cũng có thể nói về quan hệ của con người
với con người khác, cũng như với lao động và đối tượng lao động của con người
khác"(4). Con người bị hạ thấp xuống mức sinh tồn thú vật, vì mục đích
của nó là duy trì hoạt động sống của mình trong khuôn khổ các nhu cầu thể xác.
Thế giới các giá trị tinh thần đã đánh mất ý nghĩa của nó, và cùng với nó là
thế giới những người khác cũng không còn có ý nghĩa. Việc biến nhu cầu thể xác
thành nhu cầu thống trị đặt ra một vấn đề căn bản là: trong con người còn lại
bao nhiều cái có tính người?
Theo C.Mác, việc khắc phục tha hoá
chỉ diễn ra ở những nơi mà sở hữu tư nhân đã bị xoá bỏ và do vậy, việc giải
phóng xã hội khỏi sở hữu tư nhân "trở thành hình thức chính trị
của sự giải phóng công nhân, vả lại vấn đề ở đây không chỉ là sự giải
phóng của họ, vì sự giải phóng của họ bao hàm sự giải phóng toàn thể
loài người"(5). Như vậy, theo C.Mác, đạt tới tự do chính trị nhờ thủ tiêu
chế độ tư hữu, giai cấp vô sản cũng tiến hành giải phóng toàn thể nhân loại,
và đây chính là sứ mệnh giải phóng lịch sử toàn cầu của nó. Với quan điểm này,
C.Mác coi lý tưởng nhân văn về loài người được giải phóng là "sự
xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu"(6). Và, khi đó sẽ diễn ra
quá trình con người chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người, “con người
hoàn toàn quay trở lại chính mình với tính cách là con người xã hội,
nghĩa là có tính người"(7). Với nghĩa đó, có thể nói, việc thủ tiêu chế độ
tư hữu và chương trình xây dựng xã hội công bằng của chủ nghĩa nhân đạo là
đồng nhất với nhau. Khi xem chủ nghĩa nhân văn như quá trình tự nhận thức và
tự quyết của nhân loại mà, trong vận động lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải
giải quyết những đối kháng giai cấp và các cuộc cách mạng xã hội, C.Mác đã nhận
thấy một tất yếu khoa học là xây dựng lý tưởng nhân văn về lịch sử, xác định
tính quy định lịch sử của việc con người quay lại với chính mình nhờ cải tạo
chế độ xã hội.
Chỉ bằng con đường đó mới có thể
xác lập được mối quan hệ có nhân tính đích thực giữa con người và xã hội,
giữa con người và thế giới bên ngoài. Mong muốn có được bản tính hoàn hảo của
mình, con người cũng làm cho những người khác và cả thế giới đối tượng xung
quanh mình trở nên hoàn hảo hơn. Một xã hội phát triển hài hoà, đến lượt mình,
nó sẽ làm cho con người trở nên hài hoà hơn. C.Mác viết: "Nếu anh muốn
ảnh hưởng tới những người khác thì anh phải là người thực sự kích thích và
thúc đẩy những người khác. Mối quan hệ của anh đối với con người và đối với
giới tự nhiên phải là một biểu hiện của đời sống cá nhân hiện
thực của anh, một biểu hiện xác định, đáp ứng đối tượng của ý muốn
của anh”(8).
Chủ nghĩa nhân văn tích cực, trong
quan niệm của C.Mác, là chủ nghĩa nhân văn được trung gian hoá bởi việc xoá bỏ
chế độ tư hữu, trở thành cơ sở lý luận cho công cuộc xây dựng chế độ xã hội
mới mà ở đó, đời sống vật chất và tinh thần của con người được cải thiện và
không ngừng nâng cao. Khi đưa ra quan niệm coi nhu cầu đáp ứng đời sống vật
chất và tinh thần như những nhu cầu bức thiết của con người để có được sự
phát triển phong phú của bản thân mình, C.Mác đã chỉ ra tính thiết định của nó
ở nhu cầu của con người về con người khác. Theo ông, sự quan tâm của con người
đến những người khác càng sâu sắc và càng đa dạng hơn bao nhiêu thì con người
càng phong phú hơn bấy nhiêu. Hơn nữa, đây không chỉ đơn giản là sự quan tâm
của con người đến người khác, mà còn là sự thu hút một cách hữu hiệu những
người khác vào đời sống xã hội. Nói cách khác, thế giới những người khác thể
hiện trong quan niệm của C.Mác như tổng thể những quan hệ xã hội có nhân tính.
Do vậy, chủ nghĩa nhân văn hiện thực tất yếu phải bao hàm sự hiện diện nhu cầu
phát triển toàn diện của con người, nhu cầu giao tiếp với người khác, nhu cầu
được đóng góp cho tiến bộ xã hội. Với nghĩa đó, con người luôn bộc lộ nhu cầu
của mình trong quan hệ với người khác. Vốn có tính chất xã hội, nhu cầu này đã
đem lại cho con người sự phong phú, độc đáo về tinh thần mà không một dạng
thức của cải vật chất nào có thể thay thế được.
Trong Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844, C.Mác không chỉ đưa ra một quan điểm mới về cá nhân, quan
điểm đoạn tuyệt với chủ nghĩa nhân bản L.Phoiơbắc, mà còn đặt ra nhiệm vụ lịch
sử toàn thế giới quan trọng hơn là biến chủ nghĩa nhân văn từ lý luận trừu tượng
thành các luận điểm mang tính cương lĩnh và không tách rời công cuộc cải tạo
các quan hệ xã hội. Chính công cuộc cải tạo này, theo C.Mác, sẽ kích thích và
quy định sự bộc lộ các đặc điểm có nhân tính, nhân văn của con người và của xã
hội.
Nguồn cảm hứng nhân văn này cũng đã
được C.Mác thể hiện xuyên suốt bộ "Tư bản" để phê phán quan hệ xã hội
đã biến người lao động thành công cụ phi cá tính của sản xuất và làm cho con
người bị tha hoá khỏi quá trình lao động. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội, theo
C.Mác, là những cái quy định các đặc điểm cá biệt về sự sinh tồn có nhân cách
cụ thể và về tư duy của con người. Do vậy, với tư cách tiền đề thường xuyên
của lịch sử nhân loại, con người cũng là sản phẩm, là kết quả thường xuyên của
lịch sử. Không chỉ thế, con người còn là tiền đề của lịch sử nhân loại với tư
cách sản phẩm và kết quả phát triển của chính nó. Nghiên cứu cơ cấu kinh tế của
xã hội tư bản chủ nghĩa và vạch ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp
vô sản dựa trên cơ sở đó, C.Mác hoàn toàn không đi ngược lại lý tưởng nhân đạo
chủ nghĩa của mình. Toàn bộ hoạt động sáng tạo lý luận của mình đã được C.Mác
hướng vào việc biến chủ nghĩa nhân văn từ lý luận thành thực tiễn cải tạo thế
giới. Công thức của chủ nghĩa nhân đạo hiện thực này đã được C.Mác thể hiện qua
luận điểm nổi tiếng: Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người và ngược lại, sự phát triển tự do của
mọi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mỗi người.
Như vậy, có thể nói, truyền thống
nhân văn chủ nghĩa ở châu Âu thời Cận đại không những đã được C.Mác kế thừa, mà
còn được ông đưa lên một trình độ mới. C.Mác là người đầu tiên đã luận chứng
một cách khoa học cho con đường hiện thực hoá lý tưởng nhân đạo chủ nghĩa mà
tư tưởng tiến bộ của nhân loại đã đề ra cho loài người. Tư tưởng xoá bỏ tha
hoá, tạo điều kiện cho sự phát triển tự do của mỗi người và của tất cả mọi người
nhờ quá trình nhân văn hoá, văn hoá hoá quan hệ xã hội của C.Mác vẫn giữ nguyên
giá trị trong thế giới hiện đại. Do vậy, trong nghiên cứu và giảng dạy triết
học Mác, chúng ta luôn phải giữ quan điểm của mình về chính bản chất nhân văn
này để gắn kết mọi vấn đề của triết học Mác lại thành một chỉnh thể mà trung
tâm, hạt nhân của nó chính là chủ nghĩa nhân văn hiện thực, tư tưởng giải
phóng con người để con người có điều kiện tự do phát triển nhân cách toàn vẹn
và toàn diện của mình.
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại
học Mở TP. Hồ Chí Minh.
([1]) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn
tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.628.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd.,
t.42, tr.166.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd.,
t.42, tr.138.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd.,
t.42, tr.143.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd.,
t.42, tr.167.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd.,
t.42, tr.167.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd.,
t.42, tr.216.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét