Thứ Hai, 5 tháng 3, 2018

“Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”: Những giá trị bền vững

“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” được C. Mác và Ph. Ăng-ghen viết từ tháng 12-1847 đến tháng 1-1848. Đầu năm 1848, những người cộng sản thuộc các dân tộc khác nhau đã nhóm họp ở Luân-đôn và công bố “Tuyên ngôn” bằng các thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, I-ta-li-a, Đan Mạch và Phla-măng. Với “Tuyên ngôn” này, những người cộng sản đã tuyên bố trước toàn thế giới “quan điểm, mục đích, ý đồ của mình... để đập lại một câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”(1). Không phải ngẫu nhiên mà V. I. Lê-nin đã khẳng định “cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng ngàn bộ sách”.
Sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội - một tất yếu lịch sử
Trong “Tuyên ngôn”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã phân tích, đánh giá một cách biện chứng về chủ nghĩa tư bản. “Tuyên ngôn” đã khẳng định: “Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”(2). Trong chưa đến 100 năm dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, xã hội tư bản đã tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại, đồ sộ và nhờ vậy, nó đã tạo ra lượng của cải lớn gấp nhiều lần so với của toàn bộ các thời đại trước đó cộng lại. Chính “giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục. Nó buộc tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư sản, nếu không sẽ bị tiêu diệt; nó buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là phải trở thành tư sản. Nói tóm lại, nó tạo ra cho nó một thế giới theo hình dạng của nó”(3).
Tuy nhiên, như “Tuyên ngôn” đã chỉ rõ, những vũ khí mà giai cấp tư sản dùng để lật đổ chế độ phong kiến thì nay lại chĩa vào chính bản thân giai cấp tư sản. “Xã hội tư sản hiện đại,... giờ đây, giống như một tay phù thủy không còn đủ sức trị những âm binh mà y đã triệu lên... Những lực lượng sản xuất mà xã hội sẵn có, không thúc đẩy quan hệ sở hữu tư sản phát triển nữa; trái lại, chúng đã trở thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu ấy, cái quan hệ sở hữu lúc đó đang cản trở sự phát triển của chúng... Những quan hệ tư sản đã trở thành quá hẹp, không đủ để chứa đựng những của cải đã được tạo ra trong lòng nó nữa... Vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào ngay chính giai cấp tư sản”(4). Dưới chủ nghĩa tư bản, lực lượng sản xuất đã phát triển tới trình độ cao và mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Đồng thời, giai cấp tư sản còn sinh ra những người sử dụng vũ khí đó - những người vô sản, giai cấp công nhân hiện đại: “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”(5). “Tuyên ngôn” chỉ ra rằng, trong tất cả các giai cấp đối lập với giai cấp tư sản, chỉ duy nhất giai cấp vô sản mới là giai cấp cách mạng chân chính, là “giai cấp đang nắm tương lai trong tay”. Trong “Tuyên ngôn”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã gọi xã hội của giai cấp vô sản là một liên hợp, trong đó liên hiệp của các cá nhân chính là chủ nghĩa cộng sản.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen chỉ ra rằng, chủ nghĩa tư bản đã sáng tạo ra một lượng của cải vật chất khổng lồ, song đi cùng với đó là cái “lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo múc” không tình không nghĩa”. Chủ nghĩa tư bản đã chiếm lĩnh toàn cầu, xây dựng thị trường thế giới và gây ra một sự cạnh tranh phi nhân tính. Chủ nghĩa tư bản tạo ra sự năng động lớn nhất cho mỗi con người, song nó cũng biến họ thành chủ thể tha hóa của thị trường và tư bản, khi mà mọi truyền thống đều bị xóa nhoà, mọi điều thiêng liêng đều bị trần tục hóa. “Tuyên ngôn” của con người thành giá trị trao đổi; nó đã đem tự do buôn bán duy nhất và vô sỉ thay cho biết bao quyền tự do đã được ban cho và đã giành được một cách chính đáng. Tóm lại, giai cấp tư sản đã đem sự bóc lột công nhiên, vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột được che đậy bằng những ảo tưởng tôn giáo và chính trị”(6).
C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã nhìn thấy bên cạnh việc sáng tạo ra điều thần kỳ thì chủ nghĩa tư bản cũng tạo ra sự đói rét và tình trạng tha hóa. Lượng của cải khổng lồ do người lao động làm ra, đáng lẽ là nguồn nuôi dưỡng họ thì nay lại biến thành căn nguyên của sự bần cùng, sự tiến bộ không ngừng của kỹ thuật đáng lẽ phải làm con người phát triển thì lại trở thành cái giá cho sự băng hoại về đạo đức, con người càng khống chế tự nhiên bao nhiêu thì lại càng trở thành nô lệ của người khác bấy nhiêu. Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra quá trình vật hóa hay tha hóa của xã hội hiện đại, điều này khiến chủ nghĩa tư bản sẽ tự huỷ diệt từ bên trong và sẽ bị thay thế bởi một chế độ xã hội mới.
Trong “Tuyên ngôn”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen phân tích chủ nghĩa tư bản giai đoạn đầu và hậu quả của nó; tuy nhiên, cách tiếp cận và những luận điểm cơ bản của “Tuyên ngôn” vẫn có những giá trị và gợi mở to lớn cho chúng ta để nhìn nhận về thế giới tư bản hiện đại cũng như đối với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày nay. 
Những vấn nạn của chủ nghĩa tư bản mà C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã nêu lên từ 170 năm trước không những không được khắc phục và giải quyết, mà hiện còn bộc lộ ngày càng sâu sắc hơn, gay gắt và trầm trọng hơn. Trong xã hội hiện đại, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, song cũng mang lại những nguy hại to lớn cho môi trường sinh thái; tri thức, trí tuệ, lý trí ngày càng được tối ưu hóa, song cũng mang lại sự lên ngôi cho chủ nghĩa tư lợi cá nhân; tài sản của cải ngày càng nhiều, song cũng mang lại sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội ngày càng lớn,... Những nguy cơ về môi trường sinh thái, cạn kiệt tài nguyên, bùng nổ nhân khẩu, khủng bố, xung đột, chạy đua vũ trang, chiến tranh,... vẫn đang hằng ngày uy hiếp sự phát triển của nhiều quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của con người.
Với “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đưa ra những phân tích sâu sắc và triệt để về đặc trưng kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Ở đây, điểm cốt lõi là tư tưởng về xóa bỏ chế độ tư hữu. Những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng cũng đã biết đến chế độ tư hữu là căn nguyên của mọi tệ cực đoan trong xã hội tư bản, đồng thời nêu ra một số vấn đề lý luận để xóa bỏ chế độ tư hữu. C. Mác và Ph. Ăng-ghen dùng quan điểm và phương pháp khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch sử để trình bày, phân tích về sự phát sinh, phát triển và bản chất xã hội của chế độ tư hữu, từ đó giải quyết những vấn đề mà chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể nào giải quyết được. 
Bản “Tuyên ngôn” viết: “Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát của những quan hệ thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một sự vận động lịch sử đang diễn ra trước mắt chúng ta. Việc xóa bỏ những quan hệ sở hữu đã tồn tại trước kia không phải là một cái gì đặc trưng vốn có của chủ nghĩa cộng sản”(7). Nhưng chế độ tư hữu tư sản hiện thời lại là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia. Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu. Sở dĩ như vậy bởi vì chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên sự đối lập giai cấp, trên cơ sở biểu hiện của hiện tượng hàng hóa và chiếm hữu đầy đủ nhất dựa trên nền tảng một số ít người bóc lột toàn bộ đa số những người còn lại trong xã hội. Nếu không xóa bỏ chế độ tư hữu của giai cấp tư sản thì giai cấp vô sản không thể hoàn toàn giải phóng mình, càng không thể giải phóng toàn bộ nhân loại. 
Dù có hay không đồng ý, song không ai có thể phủ định được đây là đặc trưng rất cơ bản của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Một xã hội chưa có công hữu hóa triệt để về tư liệu sản xuất - đó chỉ có thể là một xã hội xã hội chủ nghĩa chưa đích thực. Cùng với điều đó, bản “Tuyên ngôn” cũng khẳng định: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”(8).
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”(9). Điều này có liên quan trực tiếp tới phương thức sản xuất xã hội. Các ông giải thích: “Chúng ta thấy rằng bản thân giai cấp tư sản hiện đại cũng là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài, của một loạt những cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất và trao đổi”(10).
Điều khẳng định này thể hiện quy luật vận động mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chủ nghĩa tư bản chỉ là một giai đoạn phát triển trong lịch sử xã hội loài người. Cùng với bước tiến của phát triển lực lượng sản xuất thì chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa, đây là khuynh hướng tất yếu khách quan của lịch sử. Chính vì vậy, để xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội cần tập trung phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển lực lượng sản xuất không chỉ làm cho dân giàu, nước mạnh, mà còn là con đường hiện thực hóa sự ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định nước ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Trong thời kỳ quá độ, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của nước ta còn lạc hậu, nên bên cạnh chế độ công hữu giữ vai trò chủ đạo thì chế độ tư hữu cũng được tồn tại và phát triển trên những phương diện nhất định. “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”(11).
Đọc “Tuyên ngôn”, chúng ta có thể hiểu được rằng sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội là tất yếu, song đây là một quá trình rất lâu dài và không bằng phẳng. Không thể nóng vội, chủ quan, bất chấp các yêu cầu của thực tiễn để đốt cháy giai đoạn, bởi vì lịch sử đã chứng minh nếu vận dụng chủ nghĩa Mác một cách máy móc mà thoát ly thực tế, không xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể thì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sẽ càng trở nên gập ghềnh hơn, khó khăn và lâu dài hơn.
Đảng Cộng sản luôn bảo vệ lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân 
“Tuyên ngôn” đứng về phía quảng đại quần chúng nhân dân, bảo vệ nhân phẩm và lợi ích của tất cả những người lao động. Đây cũng là đặc trưng căn bản, đồng thời là lập trường chính trị phân biệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày thành lập đến nay luôn tận tâm, tận lực phấn đấu vì Tổ quốc Việt Nam, vì con người Việt Nam, lấy lợi ích dân tộc làm động lực của mình, lấy ý nguyện nhân dân làm sứ mệnh của mình.
Trong “Tuyên ngôn”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ tôn chỉ căn bản của đảng cộng sản chính là mưu cầu lợi ích cho nhân dân: “Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số”(12).
“Tuyên ngôn” đã lý giải vai trò của đảng cũng như vai trò của những người cộng sản: “Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản”(13). “Những người cộng sản chiến đấu cho những mục đích và những lợi ích trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào”(14). “Ở tất cả mọi nơi, những người cộng sản đều ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện hành”(15). 
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi được thành lập đã luôn xác định rõ tôn chỉ, mục đích và quyết tâm phấn đấu vì lợi ích của dân tộc và của nhân dân. Đảng lấy con người làm gốc, đặt con người vào vị trí trung tâm, coi con người là nguồn sức mạnh nội sinh và tạo mọi điều kiện để con người Việt Nam phát triển toàn diện. 
Có thể nói, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là cương lĩnh mang tầm thế giới đầu tiên của các đảng cộng sản, là lá cờ tiên phong của giai cấp công nhân. “Tuyên ngôn” khẳng định mục đích trực tiếp của các đảng cộng sản là phải giành lấy chính quyền: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”(16). Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền và bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Chuyển từ đảng cách mạng sang đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng đất nước giàu mạnh, đẩy mạnh tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển những giá trị cao quý của văn hóa và con người Việt Nam. Ngay từ khi thành lập đến nay, kiên định nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành thành công cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, ngày càng tiến gần hơn đến mục tiêu xã hội chủ nghĩa cao đẹp. Hiện nay, một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện “tự suy thoái”, “tự diễn biến”, mà suy thoái và diễn biến đầu tiên chính là ở phương diện chính trị, tư tưởng. Với những cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức, lối sống..., họ đã tự đánh mất lý tưởng, đánh mất định hướng giá trị và đánh mất niềm tin cao quý. Đại hội XII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra: “Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(17). Chỉ có lý tưởng chân chính và những nguyên lý khoa học của chủ nghĩa cộng sản mới là hòn đá tảng để xây dựng nên thế giới quan và nhân sinh quan tiến bộ. Hiện thực hóa lý tưởng và những giá trị cao quý trong “Tuyên ngôn” không chỉ là trách nhiệm và niềm tự hào của những người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn là con đường tất yếu đối với sự phát triển của Việt Nam.
Muốn phát huy được giá trị của “Tuyên ngôn” thì chúng ta không thể chỉ học từng câu nói hay từng kết luận riêng lẻ trong đó, mà cần phải đặt mình vào vị trí, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác, kết hợp sức mạnh của thời đại và sức mạnh của dân tộc, lấy đó làm quan điểm chỉ đạo để giải quyết những vấn đề của thực tiễn phát triển đất nước. Thành công trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo cũng đã chứng minh trong thực tiễn tính đúng đắn của những nguyên lý cơ bản trong “Tuyên ngôn”.
Chủ nghĩa xã hội là tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con người 
Qua “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen muốn khắc phục những mâu thuẫn và xung đột nội tại trong lòng chủ nghĩa tư bản, chống lại sự tha hóa con người, để không chỉ giải phóng lực lượng sản xuất, mà còn giải phóng con người, phát triển toàn diện con người. “Tuyên ngôn” nêu rõ: “Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới”(18). Những lời này trong “Tuyên ngôn” đã trở thành ý chí và tinh thần của những người bị áp bức, đồng thời cũng là vũ khí nhằm thẳng vào quân thù. “Tuyên ngôn” là lời hịch hiệu triệu những người cùng khổ, giai cấp lao động trên toàn thế giới cùng đứng lên lật đổ sự thống trị của thực dân, đế quốc và tư bản.
Nhiều nội dung trong “Tuyên ngôn” thể hiện quan điểm phát triển con người toàn diện. Chúng ta thấy rằng C. Mác và Ph. Ăng-ghen rất coi trọng giáo dục, đề cao công tác tư tưởng. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất cũng có sự thay đổi và kéo theo đó là sự thay đổi về ý thức, quan niệm và tư tưởng của con người. Xã hội cộng sản chủ nghĩa không chỉ có lực lượng sản xuất phát triển, không chỉ là một xã hội có của cái vật chất vô cùng phong phú, mà ở đó tất thảy mọi người đều được tạo cơ hội và điều kiện để phát triển toàn diện về tất cả các mặt.
Một trong những luận điểm quan trọng của “Tuyên ngôn” chính là gắn kết giữa phát triển con người toàn diện với tiến bộ xã hội. Câu cuối cùng trong chương 2 của “Tuyên ngôn” đặc biệt có ý nghĩa: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(19). Trong kho tàng lịch sử tư tưởng nhân loại, quan niệm về sự phát triển tự do của con người là lý tưởng mà người ta có thể bắt gặp đây đó trong các triết thuyết, các giáo lý hoặc các học thuyết xã hội. Nhưng coi sự phát triển tự do của mỗi người không phải là cái ngăn cản tự do của người khác, không chịu sự trói buộc của cái tất yếu, để hướng tới xây dựng một xã hội mà trong đó sự phát triển tự do của mỗi cá nhân lại trở thành điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả các cá nhân khác, thì chỉ có thể được tìm thấy ở chủ nghĩa Mác, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Ngày nay, trong các lý thuyết của UNDP, quan niệm mới về sự phát triển con người cũng đã đạt tới những trình độ rất cao, đặc biệt ở các quan niệm về năng lực người và cơ hội lựa chọn của con người. Nhưng ngay chính các chuyên gia UNDP cũng chưa dám thiết kế các thước đo để đánh giá tự do cá nhân trong quan hệ với tự do của các cá nhân khác và trong quan hệ với các định chế nghiệt ngã của các chuẩn mực xã hội. 
Loài người sẽ có một xã hội mà ở đó tự do của người này chẳng những không trói buộc tự do của người khác, mà còn tạo điều kiện để người khác được tự do hơn, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa mà C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã hình dung. Với cái nhìn như vậy chúng ta có thể cảm nhận tư tưởng về tự do của C. Mác và Ph. Ăng-ghen giá trị đến chừng nào.
Có người cho rằng câu nói trên thể hiện chủ nghĩa nhân đạo của “Tuyên ngôn”. Điều đó đúng song chưa đủ, vì sự đánh giá như vậy mới chỉ dừng lại ở vấn đề con người mà không đặt nó trong quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học. Trên thực tế, nguyên lý này là một quan điểm mang tính kết luận của “Tuyên ngôn”, nó gắn kết chặt chẽ với toàn bộ nội dung tư tưởng của “Tuyên ngôn”, là kết luận có được khi nghiên cứu sự vận động mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trên cơ sở phân tích lịch sử phát triển của loài người từ quan điểm duy vật lịch sử. Nếu chúng ta tách rời chỉnh thể tư tưởng của “Tuyên ngôn” hoặc loại bỏ phần đầu của câu này thì lập luận “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” có thể có rất nhiều cách giải thích khác nhau. 
Sự phát triển toàn diện con người là một quá trình tiến bộ không ngừng gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ khi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phát triển đến một trình độ cao nhất định, khi mà không còn tình trạng người bóc lột người, giai cấp này bóc lột, áp bức giai cấp kia, thì khi đó, con người mới thực sự phát triển toàn diện. 
Vào năm 2013, theo đề xuất chung của Đức và Hà Lan, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và tập đầu tiên của bộ “Tư bản” được UNESCO công nhận là các tác phẩm thuộc Danh mục “Ký ức thế giới”. Với sự công nhận này, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và tập đầu tiên của bộ “Tư bản” đã đứng vào hàng các di tích, di sản và tư liệu của nhân loại có giá trị vĩnh hằng cần được toàn thế giới gìn giữ và bảo vệ.
Trong suốt 170 năm qua, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã có những ảnh hưởng sâu sắc đối với sự phát triển của toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Xóa bỏ áp bức, bóc lột và bất công, xây dựng một xã hội bình đẳng, công bằng, và cổ vũ nhiệt thành cho tự do của con người... là những lý tưởng cao quý và đậm tính nhân văn của chủ nghĩa Mác.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” không chỉ phát huy ảnh hưởng lớn lao của mình trong quá khứ, mà còn có những giá trị đặc biệt quan trọng trong thời đại ngày nay. Tìm hiểu giá trị đương đại của “Tuyên ngôn”, không thể tách rời hoàn cảnh lịch sử cụ thể của 170 năm về trước - khi C. Mác và Ph. Ăng-ghen viết tác phẩm vĩ đại này.
Trải qua nhiều thử thách, suốt 170 năm qua, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã trải qua những biến động to lớn, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi phải nhận thức đúng đắn và giải quyết triệt để. Điều quan trọng là ở chỗ, dù một số luận điểm nào đó của chủ nghĩa Mác có thể không còn phù hợp với điều kiện hiện nay, nhưng những học thuyết, nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác vẫn còn nguyên giá trị và sức sống, bởi chủ nghĩa Mác được xây dựng trên cơ sở khoa học, xuất phát từ thực tiễn, soi sáng cho thực tiễn và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện bằng thực tiễn mới. Chủ nghĩa Mác không hề lỗi thời như một số quan điểm thù địch và sai trái lầm tưởng.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực theo mô hình Xô-viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu dù đã bị sụp đổ vào cuối thế kỷ XX ở nhiều nước châu Âu, nhưng triển vọng về một xã hội cộng sản tương lai vẫn tràn đầy sức quyến rũ đối với mỗi cá nhân cũng như đối với tất cả các phong trào xã hội trong thế kỷ XXI. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội - “liên hiệp của những cá nhân, trong đó tự do của mỗi người là điều kiện cho tự do của tất cả mọi người” mà “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã vạch ra từ 170 năm trước vẫn luôn tươi sáng, đồng thời là mục tiêu mà nhân loại luôn hướng tới./. 
-----------------------------------------------------------------------------
(1), (2), (3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 599, 604
(4), (5), (6) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t. 4, tr. 604, 605, 600
(7), (8), (9) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t. 4, tr. 615, 618, 596
(10) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t. 4, tr. 598
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 102
(12) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, tr. 611
(13), (14), (15), (16) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, tr. 614, 644, 645, 615
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 195
(18), (19) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t. 4, tr. 646, 628
Nguyễn Quang ThuấnGS, TS, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt NamTheo Tạp chí Cộng sản

1 nhận xét: