Thứ Năm, 31 tháng 5, 2018

PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM CHO RẰNG Ở VIỆT NAM CHỈ CÓ ĐỔI MỚI KINH TẾ, KHÔNG CÓ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ



                                                                                         Kiên Trung
Cùng với những thành tựu to lớn trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước 30 năm qua nói chung và sự đúng đắn trong nhận thức, tư duy về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng từng bước giải quyết hài hòa, linh hoạt, sáng tạo và có hiệu quả mối quan hệ giữa hai lĩnh vực cơ bản này; góp phần quan trọng vào thành tựu chung của sự nghiệp đổi mới đất nước. Mặc dù vậy, thực tế vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định trong quá trình nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta. Song nếu chỉ dựa vào những khiếm khuyết (mặt thứ yếu, không cơ bản) của vấn đề này mà lại vội vàng quy chụp cho rằng, ở Việt Nam chỉ có đổi mới kinh tế, không có đổi mới chính trị; hoặc đổi mới chính trị “lệch pha” so với đổi mới kinh tế,… thì quả là một sự “ngụy biện” có chủ đích; một sự xuyên tạc, bó mép trắng trợn, thô thiển của các thế lực thù địch.
Bởi lẽ, sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, sự thống nhất biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là nét độc đáo riêng có của Việt Nam, hoàn toàn khác với Liên Xô, với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây, cũng như khác ngay cả với Trung Quốc. Nếu như ở Liên Xô, ngay trong bước đầu của cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đi vào cải tổ chính trị, nêu ra dân chủ hóa, công khai hóa; hơn nữa, lại để phong trào phát triển vô chính phủ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tách Đảng khỏi Nhà nước, tách Nhà nước ra khỏi Đảng, nêu khẩu hiệu Đảng hóa thân vào Nhà nước. Xét đến cùng, đây là sự vô hiệu hóa Đảng, nên đã dẫn đến tan vỡ Đảng, sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự tan rã của Liên bang Xô Viết. Trong khi đó, Trung Quốc ngay từ đầu đã tiến hành đồng bộ cải cách thể chế chính trị với cải cách kinh tế, chính vì vậy đã tạo sự phát triển ấn tượng. Nhưng, sau sự kiện năm 1989, tốc độ cải cách chính trị có phần chững lại, không theo kịp đà cải cách và phát triển trong lĩnh vực kinh tế. Bất cập này đã tác động bất lợi đến sự phát triển kinh tế, làm nảy sinh các tiêu cực và nhiều vấn đề khác như phân hóa xã hội, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập,... Trái lại, ở Việt Nam, ngay từ khi đề ra đường lối đổi mới cũng như trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định: “Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị”[1]; “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị”[2]; “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp”[3], v.v..
Điều đó có nghĩa, công cuộc đổi mới ở nước ta vừa có đổi mới kinh tế, vừa có đổi mới chính trị. Đổi mới kinh tế không phải là đổi mới một cách tùy tiện, vô nguyên tắc mà theo một định hướng chính trị nhất định. Đổi mới, phát triển kinh tế tạo ra môi trường và điều kiện để củng cố cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị, là nhân tố suy đến cùng quyết định sự ổn định chính trị - xã hội. Ngược lại, đổi mới chính trị lại tạo ra cơ sở chính trị - pháp lý cho sự phát triển kinh tế; đồng thời tạo động lực và gia tăng sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế.
Với những luận chứng, luận cứ trên chứng minh rõ ràng rằng, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam luôn song hành, hỗ trợ, bổ sung cho nhau; làm cơ sở, tiền đề, điều kiện của nhau; luôn có mối quan hệ biện chứng và thống nhất hữu cơ với nhau.






[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 54.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1996, tr. 71.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 99.

Bồi dưỡng nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số ở các trường sĩ quan trong Quân đội trước việc các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo nhằm chống phá cách mạng trong giai đoạn hiện nay



Kim Ngân

Nhãn quan chính trị là cách nhìn nhận đánh giá của một con người về những vấn đề chính trị - xã hội có liên quan đến lợi ích của quốc gia, dân tộc, giai cấp. Nhãn quan chính trị được biểu hiện ở mức độ nông, sâu, xa, gần, rộng, hẹp khác nhau. Cơ sở của nhãn quan chính trị là quan điểm, lập trường chính trị - giai cấp; thế giới quan và phương pháp luận trong việc xem xét và đánh giá tình hình, kinh nghiệm thực tiễn,… Theo đó, bồi dưỡng nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số trước vấn đề lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch để chống phá cách mạng Việt Nam nhằm giúp họ xem xét và đánh giá đúng bản chất của việc lợi dụng tôn giáo, thông qua nội dung và biện pháp tuyên truyền, giáo dục, định hướng, nâng cao bản lĩnh chính trị, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.                                  
Học viên người dân tộc thiểu số ở các trường sĩ quan thường là con em của đồng bào các dân tộc thiểu số ở khắp mọi miền đất nước, được cử tuyển để đào tạo thành sĩ quan Quân đội; họ sống ở địa bàn rừng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nên trình độ nhận thức, sự hiểu biết về các vấn đề chính trị - xã hội còn có những hạn chế nhất định. Do vậy, việc bồi dưỡng nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số ở các trường sĩ quan Quân đội sẽ giúp họ xem xét, đánh giá chính xác những vấn đề chính trị - xã hội, có biện pháp xử lí kịp thời, đập tan mọi âm mưu chống phá của kẻ thù, không gây ảnh hưởng xấu tới kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.
Để nhận thức rõ điều này, trong những năm qua, Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các đơn vị quản lí học viên trong các trường sĩ quan đã có nhiều chủ trương, nghị quyết, lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai đồng bộ các biện pháp bồi dưỡng nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số trước vấn đề lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch hiện nay. Nhiều học viên người dân tộc thiểu số đã tích cực, chủ động, tự giác, học tập, tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh và nhãn quan chính trị của bản thân để áp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Thực tiễn cho thấy, hoạt động bồi dưỡng nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số ở một số cấp ủy, chỉ huy các cấp chưa được coi trọng đúng mức, hiệu quả chưa cao, còn hạn chế, bất cập về nội dung và biện pháp..., khả năng đấu tranh của học viên người dân tộc thiểu số trước việc các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo nhằm chống phá cách mạng đôi khi còn lúng túng. Vì vậy, để bồi dưỡng, nâng cao nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số trước vấn đề lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch, theo chúng tôi cần tập trung thực hiện đồng bộ một số biện pháp cơ bản sau:
Một là, thường xuyên giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức cho học viên người dân tộc thiểu số trước vấn đề lợi dụng tôn giáo hiện nay.
Đây là nội dung quan trọng, trực tiếp tác động đến hoạt động bồi dưỡng nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số trước vấn đề lợi dụng tôn giáo. Theo đó, cần thường xuyên tiến hành công tác giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức cho học viên người dân tộc thiểu số về tầm quan trọng của việc bồi dưỡng nhãn quan chính trị. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần giáo dục, quán triệt sâu sắc lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong đó, cần tập trung quán triệt quan điểm Đại hội XII của Đảng và Luật tín ngưỡng tôn giáo được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kì họp thứ 2 thông qua ngày 18/11/2016. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, giáo dục, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động giáo dục - đào tạo nói chung với các hoạt động sinh hoạt chính trị, chú trọng tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh nội bộ, viết tin bài trên tạp chí, website, bản tin thi đua của nhà trường, qua hệ thống panô, khẩu hiệu,... Từ đó, tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động trong hoạt động bồi dưỡng nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số.
Hai là, tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp theo hướng tăng cường bồi dưỡng nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số.
Nội dung cần đổi mới theo hướng giảm thời gian giảng dạy lí thuyết trên lớp, tăng thời gian và nội dung thực hành. Rà soát, điều chỉnh cơ cấu thời lượng, khắc phục sự trùng lặp nội dung giữa các môn học, loại bỏ nội dung kiến thức đã lạc hậu, cập nhật kiến thức mới. Thường xuyên phổ biến, quán triệt đầy đủ cho học viên người dân tộc thiểu số về chính sách tôn giáo và phương thức giải quyết các vấn đề tôn giáo; tình hình, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; chỉ rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; tinh thần yêu nước; lịch sử, truyền thống của dân tộc, của Đảng, của Quân đội và đơn vị.
Hình thức bồi dưỡng nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số cần đổi mới mạnh mẽ, theo hướng đa dạng hóa với nhiều hình thức phong phú, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với đối tượng như: thông qua công tác giáo dục - đào tạo, các buổi sinh hoạt của Hội đồng quân nhân, đoàn thanh niên, học tập chính trị, nghị quyết, tuyên truyền, cổ động, dân vận, phong trào thi đua, hội thao, hội thi,... giúp người học trang bị, củng cố, mở rộng kiến thức về tôn giáo, củng cố khả năng xem xét, xử lí, phân tích, đánh giá đúng bản chất của vấn đề.
Ngoài ra, cần chú trọng kết hợp giữa các phương pháp trong quá trình bồi dưỡng nhãn quan chính trị như: thuyết phục, nêu gương, tự phê bình và phê bình, kết hợp giáo dục chung với giáo dục riêng,...; thực hiện kết hợp đồng bộ, linh hoạt các phương pháp trong quá trình học tập, rèn luyện trong hoạt động bồi dưỡng nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số trước vấn đề lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch hiện nay.
Ba là, xây dựng môi trường chính trị thuận lợi, giúp học viên người dân tộc thiểu số tích cực tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lí luận hiện nay.
Xây dựng môi trường chính trị thuận lợi vừa là điều kiện, vừa là động lực thúc đẩy học viên người dân tộc thiểu số phấn đấu vươn lên, hoàn thiện phẩm chất, năng lực toàn diện, trong đó có nhãn quan chính trị. Xây dựng môi trường chính trị thuận lợi được biểu hiện tập trung ở sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện mọi mặt của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lí luận. Tạo điều kiện cho học viên người dân tộc thiểu số được tự do thể hiện quan điểm trên các diễn đàn khoa học, tuy nhiên cần nói đúng lúc, đúng chỗ và đúng đối tượng, có cơ sở khoa học và lập luận chặt chẽ; tôn trọng và khuyến khích học viên tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lí luận nhằm chống lại âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Khuyến khích học viên viết báo, tạp chí, website, bản tin thi đua, truyền thanh nội bộ, các tập san văn học - nghệ thuật, tham gia lực lượng 47 của nhà trường,... Các nội dung viết cần được kiểm duyệt chặt chẽ của các cơ quan và chỉ huy đơn vị trước khi đăng tải.
Bốn là, phát huy vai trò của học viên người dân tộc thiểu số ở các trường Sĩ quan trong quân đội trong việc tự bồi dưỡng nhãn quan chính trị.
Đây là giải pháp có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc bồi dưỡng nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số. Do đó, từng học viên người dân tộc thiểu số cần có nhận thức đúng về vai trò, tầm quan trọng của nhãn quan chính trị, xây dựng động cơ, thái độ, niềm tin, ý chí trong học tập, tu dưỡng của bản thân. Thực tiễn cho thấy, trên cơ sở nắm vững quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề tôn giáo, xác định tốt chức trách, nhiệm vụ của bản thân sẽ giúp các học viên người dân tộc thiểu số có cái nhìn toàn diện, đầy đủ, sâu sắc hơn về bức tranh tôn giáo; phân biệt được giữa tôn giáo với lợi dụng tôn giáo, giữa tín ngưỡng tôn giáo, phong tục, tập quán với những biểu hiện về mê tín, hủ tục lạc hậu và những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo của các thế lực thù địch để chống phá cách mạng. Để giải quyết tốt vấn đề này, đòi hỏi học viên người dân tộc thiểu số cần bám sát dân, hiểu về thực trạng tình hình tôn giáo, kiên trì giải thích, tuyên truyền cho đồng bào không theo sự lôi kéo của kẻ xấu, giữ gìn phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. 
         Học tập, tu dưỡng, hình thành, hoàn thiện nhãn quan chính trị cho học viên người dân tộc thiểu số là một quá trình lâu dài, khó khăn, đòi hỏi tinh thần cầu thị, tính tích cực học tập, nghiên cứu để tìm ra con đường, biện pháp nâng cao nhãn quan chính trị của mỗi học viên. Bên cạnh đó, mỗi học viên người dân tộc thiểu số cần thường xuyên tự bồi dưỡng nhãn quan chính trị để có nhận thức, hành động, cách thức đấu tranh đúng đắn trước việc các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo nhằm chống phá cách mạng trong giai đoạn hiện nay.

Cảnh giác với các hình thức chống phá của các thế lực từ bên ngoài đối với các quan điểm, lý luận của Đảng



Tg: Vĩnh Chân
Mục tiêu cơ bản và lâu dài của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam là xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm suy yếu và thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ XHCN, đưa nước ta theo con đường tư bản chủ nghĩa. Để đạt được mục tiêu đó, các thế lực thù địch đã sử dụng các hình thức chống phá rất đa dạng:
Một là, lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng như: báo chí, phát thanh, truyền hình, đặc biệt là mạng mạng internet để tuyên truyền những quan điểm sai trái, thù địch. Đây là những công cụ đặc biệt lợi hại để làm cho tư tưởng dễ dàng thâm nhập, lan tỏa trong quần chúng nhân dân.
 Hai là, lợi dụng xu thế hợp tác thông qua quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, xã hội… hoặc lấy danh nghĩa vào Việt Nam dự hội thảo, du lịch… để truyền bá các quan điểm sai trái, thù địch; reo rắc tư tưởng hoài nghi con đường CNXH vào một số cán bộ, công nhân viên, trí thức, văn nghệ sĩ ra nước ngoài công tác, học tập, tham gia hội thảo, tham quan, du lịch.
Ba là, sử dụng đội quân người bản xứ làm công cụ thực hiện “diễn biến hòa bình”. Đội ngũ này gồm những người: những phần tử cơ hội chính trị, chống đối ở Việt Nam; một số người trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng, mặc dù đã thoái hóa, biến chất về chính trị nhưng vẫn giữ được địa vị do che đậy được bản chất của mình; những “chiến sĩ dân chủ” đủ loại, trong đó có một số người trước đây là những nhà hoạt động cách mạng có công lao, nay “sám hối”, “trở cờ” (Mỹ và các nước phương Tây tìm cách “phong thánh” cho các chiến sĩ dũng cảm đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền).
Bốn là, sử dụng các tổ chức phản động người Việt lưu vong tại nước ngoài tiến hành các hoạt động bạo loạn hòng gây mất ổn định tại Việt Nam.
Những hoạt động nói trên của các thế lực thù địch đều hướng vào mục đích làm cho đại đa số nhân dân Việt Nam nghi ngờ thành quả cách mạng trong quá khứ, nhìn vào thực tại xã hội chỉ thấy tiêu cực, bất ổn, bế tắc, nhìn vào tương lai thì thấy mù mịt; cho rằng mọi tồn tại, yếu kém, tiêu cực đều do Đảng và việc định hướng XHCN là sai lầm; từ đó suy giảm, mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, reo rắc tâm lý hoài nghi, bất bình âm ỷ trong xã hội.


Cán bộ, đảng viên mà suy thoái là đánh mất vai trò lãnh đạo của mình đối với đất nước và xã hội



Tg: Vĩnh Chân
Hiện nay, tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, đó là vấn đề hệ trọng của Đảng, liên quan đến vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách.
Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ những biểu hiện sự suy thoái về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên, thể hiện ở chỗ: phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN; dao động, thiếu niềm tin, sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức sai, quan điểm lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng...
Sự suy thoái về đạo đức, lối sống gắn liền với tư tưởng thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc… trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước.
Quá trình diễn ra tình trạng suy thoái đó cũng là quá trình diễn ra tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho họ ngày càng xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng; ngày càng quan liêu, xa dân, làm suy giảm dần lòng tin của nhân dân đối với Đảng và cuối cùng dẫn đến hậu quả là: Đảng tự đánh mất vai trò lãnh đạo của mình đối với đất nước và xã hội.


CẢNH GIÁC VỚI MƯU ĐỒ PHỦ NHẬN HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC



                                                                                         Kiên Trung
Sáng tạo ra học thuyết giá trị thăng dư, C.Mác đã làm một cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế - chính trị học, chỉ ra quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản, vạch trần “bí mật” của chế độ tư bản là bóc lột giá trị thặng dư do sức lao động của những người lao động làm thuê tạo ra. Bóc lột giá trị thặng dư là bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa tư bản, là đầu mối của mọi mâu thuẫn đối kháng giữa tư bản và lao động, là vấn đề không thể giải quyết được trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ph.Ăngghen cho rằng, việc phát hiện ra học thuyết giá trị thặng dư là công lao vĩ đại nhất của C.Mác. Nó chiếu sáng rực rỡ lên những lĩnh vực kinh tế mà trước kia những nhà xã hội chủ nghĩa cùng mò mẫm trong bóng tối không kém gì những nhà kinh tế học tư sản. Chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ ngày có giải đáp đó, và nó là điểm trung tâm của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Nhưng từ khi ra đời cho đến nay, học thuyết giá trị thặng dư cũng là một trong những trọng điểm mà kẻ thù của chủ nghĩa Mác và các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội tập trung xuyên tạc, bóp méo nhất. Họ cố tình lý giải theo “cách riêng của mình” rằng, chính máy móc tạo ra giá trị, còn sức lao động của người công nhân nếu được trả công sòng phẳng đúng với giá trị của anh ta thì nhà tư bản không có cái gọi là bóc lột công nhân mà họ chỉ làm giàu chính đáng nhờ bóc lột máy móc. Ở đây, mánh khóe của họ là muốn phủ nhận học thuyết giá trị thăng dư, vì nếu đúng như thế thì lý luận của Mác còn có ý nghĩa gì.
Thực chất, luận điệu này cũng không có gì mới mẻ. Ngay từ sớm, chính C.Mác đã chỉ ra rằng: Cũng như mọi bộ phận cấu thành khác của tư bản bất biến, máy móc không tạo ra một giá trị nào cả, nhưng nó chuyển giá trị của bản thân nó vào sản phẩm mà nó được dùng để chế tạo ra. Dĩ nhiên, C.Mác hiểu rất rõ rằng máy móc càng tinh xảo, kỷ thuật càng hiện đại thì năng suất lao động càng cao, sản phẩm lao động càng nhiều. Nhưng dù máy móc có vai trò quan trọng đến đâu đi chăng nữa cũng không tự nó chuyển được giá trị vào sản phẩm, chứ chưa nói đến việc tạo ra giá trị mới. Máy móc dù hiện đại như thế nào, muốn phát huy tác dụng đều phải thông qua lao động sống của con người, lao động đó gồm cả trí lực và thế lực, lao động sáng tạo, có mục đích của con người.
Theo C.Mác, không bao giờ máy móc có thể chuyển vào sản phẩm mới một giá trị nhiều hơn giá trị mà nó đã mất đi trong quá trình sản xuất. Nghĩa là, trong sản phẩm mới, giá trị của máy móc được “bảo toàn”, được “chuyển sang”, được “tái hiện”, và trở thành những bộ phận cấu thành “bất biến” của giá trị sản phẩm, chứ bản thân nó không tạo ra giá trị mới. Có thêm giá trị mới được tạo ra là do lao động của người công nhân đã bị kéo dài trong một thời gian nhất định, giá trị mới này gồm tiền công và giá trị thăng dư. Với những luận chứng rõ ràng, đầy sức thuyết phục, C.Mác đã làm rõ vấn đề hết sức cốt lõi: Lao động sống vừa bảo tồn được giá trị của máy móc trong sản phẩm mới, vừa tái sản xuất ra vật ngang giá trị với bản thân mình, và còn sản xuất ra một số dư là giá trị thặng dư. Và C.Mác kết luận: Chỉ có lao động sống mới là nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Hiện nay, các học giả tư sản còn lập luận rằng: Quy luật giá trị thặng dư có thể tác động trong thời kỳ kinh tế công nghiệp, nhưng quy luật ấy không có tác dụng trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, thời đại kinh tế thị trường hiện đại, kinh tế tri thức. Trước đây, giai cấp công nhân, người lao động bán sức lao động, nhưng ngày nay, họ không thể bán tri thức, trí tuệ được,… Ngày nay, làm ra giá trị không phải chủ yếu do lao động trực tiếp, bóc lột không phải do chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất, mà hình thức hiện nay, hình thức quan trọng hơn hết của tài sản lại là những thứ không thể trực cảm được. Nó là siêu tượng trưng, siêu ký hiệu, nó là tri thức, chất xám.
Thêm vào đó, các nhà kinh tế học tư sản hiện nay còn lập luận rằng: Trong học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác quá đề cao lao động cơ bắp và coi nhẹ hoặc không thấy hết vai trò của lao động trí lực, lao động quản lý trong quá trình tạo ra giá trị. Điều đó càng không đúng. Khi hỏi về lao động trừu tưựng, chính C.Mác đã chứng minh đó là sự hao phí về sức óc, thần kinh, cơ bắp. Không chỉ thế, Mác còn phân biệt rất rõ giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn, sản phẩm của một phút lao động phức tạp là một hàng hóa có giá trị cao hơn, thậm chí cao hơn rất nhiều lần so với sản phẩm của một giờ lao động giản đơn. Cũng chính vì đặc biệt coi trọng lao động trí tuệ nên C.Mác đã từng dự báo khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là một động lực của lịch sử, là một lực lượng cách mạng.
Những luận cứ, luận chứng và cách lập luận sâu sắc, lôgíc chặt chẽ,… thể hiện ở mỗi nguyên lý, mỗi luận điểm trong học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác cho tới nay vẫn là chân lý được thực tiễn kiêm nghiệm. Những sáng tạo và phát triển của các thế hệ sau vẫn phải lấy học thuyết này của C.Mác đặt nền móng, làm cơ sở và điểm xuất phát. Và rất nhiều vấn đề còn nghi vấn, tranh luận xuất hiện xung quanh học thuyết của Mác cũng phải quay về, trở lại tìm sự gợi ý và chỉ dẫn của C.Mác và Ph.Ăngghen.

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2018

VỤ ÁN TRỊNH XUÂN THANH: SỰ LỢI DỤNG CỦA CÁC THẾ LỰC CHỐNG PHÁ NGOÀI NƯỚC LÀ KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN ĐƯỢC!



                                                                                            Nam Lý
Ngày 31/7/2017, Trịnh Xuân Thanh sinh ngày 13/2/1966, đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Nhà 24, C2 Ciputra, Tây Hồ, Hà Nội, là bị can truy lã theo quyết định số 20/C46 - P12 ngày 19/9/2016 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Bộ Công An đã đến Trực ban hình sự Cơ quan an ninh điều tra - Bộ Công An đầu thú. Cơ quan an ninh điều tra - Bộ Công An tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú theo quy định của pháp luật. Sau đó, các cơ quan tố tụng của Việt Nam đã tiến hành khởi tố điều tra, truy tố và xét xử theo đúng quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Và lẽ ra, như thế, mọi việc đã đúng đối với Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đúng với nguyện vọng, mong muốn của nhân dân, thực tế thông qua thực hiện nghiêm pháp luật ở Việt Nam vừa qua đã tăng thêm niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Đằng này, các thế lực thù địch ở nước ngoài đã lợi dụng vụ án Trịnh Xuân Thanh để làm “mảnh đất màu mỡ” viết những lời bình, đưa ra những bình luận bịa đặt, thiếu thiện chí, khách quan đối với Việt Nam rồi đưa lên các trang mạng. Chúng bịa đặt cho rằng: Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Đức (thậm trí còn “dựng” cả “kịch bản” để tuyên truyền trên mạng). Thực chất đây chỉ là luận điệu chống phá, gây chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với Đức vốn đang được phát triển toàn diện, hai bên đã tạo sự tin cậy lẫn nhau trong quan hệ trong suốt những năm qua.
Xem xét, nhìn nhận một vấn đề cần khách quan, toàn diện, đây là sự “hơn của con người đối với hiện tượng khác của vũ trụ - vì con người có bộ óc”. Khi các thế lực thù địch ngoài nước bịa đặt như thế thì người xem cần có thái độ đúng về việc này chớ cổ súy theo cái vô lý ấy.


Thứ Hai, 28 tháng 5, 2018

TỈNH TÁO VỚI NHỮNG SUY DIỄN HÀM HỒ CỦA PHẠM TRẦN



                                                                                          Gió Biển
Trong bài viết “Hội nghị Trung ương 7 - Suy thoái, xuống cấp dài dài” của Phạm Trần đăng trên trang “Tiếng Dân” ngày 10/5/2018 với một dung lượng khá dài. Trong đó, bài viết đã tập trung nêu bật những nội dung của Hội nghị bàn về công tác cán bộ, kèm theo những trích dẫn, dẫn chứng minh họa và đưa ra những nhận định “xoáy sâu” ẩn chứa trong đó mưu đồ phê phán trách nhiệm của những người đứng đầu Đảng ta là các Tổng Bí thư, đồng thời, trong bài viết còn đặt ra những câu hỏi lửng, những nhận xét, những suy diễn nhằm xuyên tạc các nhận định, đánh giá của Đảng ta về công tác cán bộ.
          Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII diễn ra trong 6 ngày đã kết thúc thành công tốt đẹp. Kết quả của Hội nghị thể hiện tinh thần trách nhiệm, sự đoàn kết thống nhất cao của Trung ương. Trong số rất nhiều nội dung quan trọng, điểm nhấn mạnh của Hội nghị lần này là Trung ương yêu cầu phải có phương pháp đánh giá cán bộ một cách khách quan, chính xác; có cơ chế tạo động lực, đổi mới sáng tạo, rèn luyện qua thực tiễn có nhiều khó khăn, thách thức lớn của đội ngũ cán bộ và đề cao giải pháp kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, chủ nghĩa cá nhân, cục bộ địa phương, họ hàng trong công tác cán bộ.
Đây là nội dung có ý nghĩa hết sức quan trọng đập lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về công tác cán bộ của Đảng, qua đó khẳng định đanh thép sức mạnh của Đảng trong đấu tranh ngăn chặn sự tha hóa quyền lực trong bộ máy công quyền, sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên nhằm củng cố, nâng cao sức mạnh hệ thống, tạo dựng niềm tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta trong giai đoạn hiện nay.


ĐẤU TRANH LOẠI BỎ BIỂU HIỆN “LÀM VIỆC CẦM CHỪNG” TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY



                                                                                                   Gió Biển
Những người “làm việc cầm chừng” ở các cơ quan công quyền Việt Nam hiện nay luôn mang trong mình tư tưởng đứng trong “biên chế Nhà nước” nên dựa dẫm, ỷ lại, an phận thủ thường, không có chí tiến thủ, động lực cống hiến. Đó là những biểu hiện rất đáng lên án, nếu không được khắc phục triệt để thì sẽ làm suy giảm sức mạnh của Đảng, giảm niềm tin của người dân vào cán bộ, đảng viên.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên quyết đấu tranh phê phán tư tưởng “trung bình chủ nghĩa”, “làm việc cầm chừng” của cán bộ, đảng viên. Tuy vậy, những biểu hiện này cho đến nay vẫn tồn tại với những tính chất, mức độ ngày càng phức tạp. Để góp phần loại bỏ biểu hiện này trong các tổ chức công quyền hiện nay cần có sự chung tay, góp sức của cả hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, mà quan trọng nhất phải từ ý thức, trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên. Do đó, đối với cá nhân, mỗi cán bộ, đảng viên cần xác định lại tư tưởng, động cơ, thái độ, trách nhiệm của mình, sống có hoài bão, lý tưởng, nuôi dưỡng khát vọng hướng tới từng bước hoàn thiện bản thân ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ. Đối với tổ chức, cần xây dựng được hệ tiêu chí khách quan, khoa học để đánh giá trúng, đúng trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh luân chuyển cán bộ; mạnh dạn thay thế những cá nhân yếu kém, trung bình bằng những cá nhân mới tốt hơn; lựa chọn được những người đứng đầu có đức, có tài, có năng lực quản lý, lãnh đạo, chuyên môn tốt, giàu tinh thần nhiệt huyết vì sự phát triển của cơ quan, đơn vị.
Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII vừa qua đã nóng lên với rất nhiều vấn đề liên quan đến sự tồn vong của đất nước. Trong đó, Hội nghị đã ban hành Nghị quyết về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Với chủ trương nhất quán, xác định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng mang tính sống còn của Đảng, phải được tiến hành khoa học, có bước đi thận trọng, bền vững. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài bền vững. Hội nghị lần này như luồng gió mới nhằm xốc lại tinh thần, trách nhiệm, để mỗi cán bộ, đảng viên có điều kiện soi rọi, chiêm nghiệm và làm mới bản thân ngang tầm với từng cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao.

Đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo để phá hoại của các thế lực thù địch

Biên phòng - Trong lịch sử nước ta, vấn đề tôn giáo đã từng bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách triệt để lợi dụng để phục vụ cho âm mưu xâm lược và chống phá cách mạng Việt Nam. Hiện nay, trong âm mưu “Diễn biến hòa bình” chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các thế lực phản động và thù địch vẫn triệt để lợi dụng tôn giáo như con bài hết sức lợi hại để thực hiện mục đích đen tối của chúng.
5aed2d5522f7c70ed400174a
Cán bộ Đồn Biên phòng Quang Long, BĐBP Cao Bằng phối hợp với dân quân địa phương tuần tra bảo vệ biên giới. Ảnh: N.Minh
Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc và tôn giáo. Mặc dù nguồn gốc, đặc điểm và thời điểm hình thành, phát triển của mỗi tôn giáo có sự khác nhau, nhưng nhìn chung, các tôn giáo luôn có tinh thần bao dung, đoàn kết, gắn bó trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước, cộng đồng các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, hòa chung niềm vui và nỗi đau của dân tộc trong những thời khắc lịch sử, góp phần phát triển và làm rạng rỡ nền văn hóa Việt Nam. Tôn trọng và phát huy những giá trị nhân văn của tôn giáo, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1-1-2018. Đây là cơ sở để các tôn giáo ở nước ta hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Thế nhưng, trong những năm gần đây, các thế lực phản động và thù địch đang lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước ta.
Mục tiêu xuyên suốt của các thế lực phản động và thù địch là xóa bỏ chế độ xã hội ở nước ta. Để thực hiện mục tiêu đó, âm mưu của chúng là chia rẽ sự đoàn kết lương giáo, chia rẽ các tôn giáo với nhau, tách các tôn giáo ra khỏi khối đại đoàn kết toàn dân, tách các tôn giáo ra khỏi phong trào, sự nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc. Các thế lực thù địch đã và đang sử dụng các thủ đoạn như xuyên tạc sự thật về tình hình tôn giáo Việt Nam, xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà Nước ta, vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo. Hành động chống phá của chúng tập trung vào một số hoạt động chủ yếu như tìm cách ủng hộ các tổ chức phản động; dung túng, giúp đỡ lực lượng phản động trong tôn giáo người Việt lưu vong ở nước ngoài; hỗ trợ, kích động và chỉ đạo các đối tượng cực đoan, phản động tôn giáo ở trong nước; tài trợ về tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật cho các hoạt động chống phá Việt Nam.
Biểu hiện cụ thể của hoạt động này mà các đối tượng thường sử dụng là lợi dụng sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo để khống chế, kích động quần chúng, tuyên truyền chống chế độ. Lợi dụng thần quyền và hệ thống tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức mang danh nghĩa tôn giáo để tập hợp lực lượng, kích động, khống chế quần chúng, phá rối trật tự an ninh, gây bạo loạn. Lợi dụng các cơ sở tôn giáo ở vùng dân tộc làm nơi cất giấu vũ khí, phương tiện, nơi tụ họp, chỉ đạo hoạt động chống phá. Lôi kéo một số chức sắc, cốt cán trong các tổ chức tôn giáo là người dân tộc thiểu số, móc nối, cấu kết giữa những phần tử phản động trong nước với bọn phản động bên ngoài để hoạt động phá hoại an ninh quốc gia. Lợi dụng những sơ hở thiếu sót của chính quyền địa phương trong giải quyết, xử lý các vụ việc liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo... để xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực dân chủ và nhân quyền.
Trong những năm gần đây, ở những địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ, các đối tượng phản động và thù địch đang ráo riết tiến hành các hoạt động tuyên truyền, lôi kéo một số tín đồ, lập ra một số hình thức tôn giáo riêng như "Tin lành Đề-ga", "Tin lành riêng của người Mông", "Phật giáo riêng của người Khmer"... Ở vùng đồng bằng, sau sự cố ô nhiễm môi trường biển do Formosa  gây ra, nhiều người dân Nghệ An và các tỉnh lân cận đã tham gia các cuộc biểu tình đòi Formosa và Chính phủ bồi thường thiệt hại. Một số chức sắc tôn giáo, những kẻ tự xưng là “nhà đấu tranh dân chủ” đã kích động giáo dân tụ tập, biểu tình, tuần hành, gây rối, đập phá phương tiện, cản trở hoạt động giao thông, tấn công người thi hành công vụ, gây mất ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Khi lực lượng chức năng thực thi chức trách theo quyền hạn thì chúng vu cáo “đàn áp, bắt giữ và đánh đập” người tham gia biểu tình; phát tán những thông tin sai sự thật trên mạng xã hội như “Thư ngỏ”, “Bản lên tiếng”, “Kháng thư”... với nội dung vu cáo chính quyền bao che cho Formosa “đàn áp” những người đi đòi quyền lợi, kêu gọi người dân khởi kiện Formosa lên Tòa án Hình sự quốc tế...
Ngoài ra, chúng còn phối hợp với một số tổ chức tôn giáo phản động ở nước ngoài như “Phật giáo Việt Nam thống nhất” phát tán tài liệu trên mạng In-tơ-nét với nội dung xuyên tạc, vu khống chính quyền Việt Nam khủng bố, đàn áp, bắt giam, ngăn cản hoạt động tôn giáo của các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Số cầm đầu tổ chức người Thượng lưu vong ở Mỹ tổ chức biểu tình phản đối chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền đối với người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên; tiếp tục chỉ đạo một số phần tử xấu trong nước thu thập tình hình có liên quan đến dân chủ, nhân quyền và tìm cách lien hệ với một số tổ chức, cá nhân người nước ngoài để yêu cầu họ giúp đỡ giải quyết vấn đề “Tin lành Đề-ga”...
Trước thực trạng phức tạp về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta cần có cách nhìn toàn diện và có giải pháp khoa học. Phải xác định kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực phản động và thù địch lợi dụng tôn giáo để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” là một nội dung trọng tâm của công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội nhằm giữ vững ổn định về chính trị, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc các cấp, các đoàn thể quần chúng, các chức sắc tôn giáo cũng như già làng, trưởng bản trong việc tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân nêu cao cảnh giác, tăng sức đề kháng trước mọi âm mưu mua chuộc, dụ dỗ và kích động của các thế lực phản động và thù địch.
Bên cạnh đó, cần tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, khắc phục tình trạng yếu kém trong buông lỏng quản lý ở một số địa phương nhất là tuyến cơ sở xã, phường. Chú trọng công tác xây dựng lực lượng chính trị, cơ sở cốt cán trong tôn giáo; làm tốt công tác phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên trong tín đồ tôn giáo nhằm phát huy tác dụng làm “hạt nhân” trong phong trào cách mạng của quần chúng ở địa phương. Đẩy mạnh công tác phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; thực hiện tốt chính sách đoàn kết lương - giáo; tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo bền vững, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, làm cho cộng đồng ổn định, buôn làng phát triển, gia đình ấm no hạnh phúc. Ngoài ra cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo chuyên sâu ở tỉnh, huyện, xã nhằm đáp ứng tốt yêu cầu quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong tình hình mới.
PGS, TS Vũ Đăng Hiến

Không thể phủ nhận giá trị thời đại Tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời đại ngày nay là thời đại toàn cầu hoá. Các giá trị chung của nhân loại về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa nhanh chóng lan tỏa trên Internet, mạng xã hội. Đây là cơ hội cho các dân tộc có thể chia sẻ những giá trị của dân tộc mình với các dân tộc khác.
Đây cũng là cơ hội để nhân loại nhìn lại những hệ tư tưởng, học thuyết, tư tưởng trong những thời đại lịch sử đã trôi qua, đánh giá lại những gì đã bị lịch sử vượt qua, những gì vẫn còn và cần vận dụng phát triển.
Dân tộc Việt Nam có thể và có quyền tự hào chia sẻ với các dân tộc, bè bạn quốc tế Tư tưởng Hồ Chí Minh. Những tác phẩm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong nhiều giai đoạn cách mạng Việt Nam như Bản án chế độ thực dân Pháp; Đường Kách Mệnh; Cương lĩnh chính trị 1930; bản Tuyên ngôn Độc lập 1945; Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến; Sửa đổi lối làm việc; Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lênin; Lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập tự do” 1966; Di chúc; các bài viết, nói, văn, thơ, báo chí, huấn thị… thể hiện quan điểm, tư tưởng, tầm nhìn vĩ đại, sự đa dạng về thể loại và đặc sắc về phong cách sáng tạo.
Thế nhưng lâu nay, những kẻ tự xưng là “người yêu nước”, người “bất đồng chính kiến”, những thế lực thù địch trong và ngoài nước lại lợi dụng Internet, mạng xã hội để xuyên tạc, bóp méo, bôi nhọ thân thế, sự nghiệp và Tư tưởng của Người. Các hành vi này được chúng đẩy mạnh trong dịp toàn Đảng, toàn dân, các lực lượng vũ trang chúng ta kỷ niệm 128 năm Ngày sinh của Người.
Có ý kiến được tung lên mạng cho rằng, Hồ Chí Minh “chẳng có tư tưởng gì”, chỉ là người “du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam”, gây ra các cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”, “nồi da nấu thịt”. Hậu quả là đã trên 40 năm, kể từ ngày 30-4-1975 đến nay “dân tộc Việt Nam vẫn chưa được hòa hợp”...
Ngày nay, nói về Tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta có đủ cơ sở khẳng định rằng, những tư tưởng của Người là sự tích hợp những giá trị tư tưởng của nhân loại, đó là “Tự do, Độc lập, Dân chủ, Bình đẳng, Trách nhiệm, Đoàn kết”.
 Trong bản Tuyên ngôn Độc lập 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích lại bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ 1776: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1789: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Từ những tiền đề tư tưởng lớn đó, Người đưa ra một chân lý mới có ý nghĩa thời đại, đó là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới và rút ra kết luận, một cuộc cách mạng thành công thì “quyền phải giao cho dân chúng số nhiều”, “chớ để trong tay một bọn ít người” và dân chúng phải “được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật” (theo tác phẩm “Đường Kách mệnh”, 1927).
Là một người macxit, nhưng Hồ Chí Minh không phải là một người giáo điều. Còn nhớ vào ngày 15-7-1969, nghĩa là chỉ gần 2 tháng trước khi qua đời, trong bài trả lời phỏng vấn đồng chí Sác-lơ Phuốc-ni-o, phóng viên Báo Nhân đạo (Pháp) về vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Về phần chúng tôi, chính là do cố gắng vận dụng… một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam mà giành được thắng lợi to lớn… Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều yếu tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng, trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là Chủ nghĩa Mác-Lênin”.
Đi theo con đường của chủ nghĩa Mác – Lênin để giành độc lập dân tộc, song Hồ Chí Minh không phải là người theo chủ nghĩa biệt phái, Người luôn luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích giai cấp. Sau khi cách mạng thành công, Người chủ trương xây dựng nhà nước cộng hòa, dân chủ, của dân, do dân, vì dân với đội ngũ cán bộ, công chức có đạo đức cách mạng.
Không theo mô hình nhà nước Xô Viết hình thành sau Cách mạng Tháng Mười, là một cuộc cách mạng mà Người đánh giá là “cách mạng đến nơi”, là “quyền giao cho dân chúng số nhiều”…
Nhưng đối với Việt Nam, cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân và giải phóng xã hội thoát khỏi chế độ thực dân, phong kiến. Người quyết định xây dựng nhà nước theo mô hình “dân chủ, cộng hòa” với nguyên tắc: Chính quyền các cấp, từ thấp đến cao đều do nhân dân bầu ra, đại diện cho quyền và lợi ích của đại đa số nhân dân.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất đất nước không chỉ là một nhiệm vụ chính trị mà còn là phẩm giá của một dân tộc. Các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ buộc phải đấu tranh gian khổ, trường kỳ là vì những giá trị đó. Là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, nhưng dân tộc ta không thể vì hòa bình mà chấp nhập sự thống trị của bất cứ thế lực xâm lược nào, cho dù chúng hùng mạnh, hung bạo, nham hiểm đến đâu.
Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta một lần nữa!… Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(1).
Trong các cuộc kháng chiến, nhất là cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, quân dân ta không thể không đồng thời đánh đổ chính quyền tay sai, quân đội tay sai do chúng dựng lên, nhằm “thay đổi mầu da trên xác chết”. Bởi vậy không thể nói cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược là “nội chiến”, là “nồi da nấu thịt”.  Tư tưởng đặt lợi ích độc lập của dân tộc, tự do của nhân dân lên trên hết đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại vào năm 1966, khi đế quốc Mỹ tăng cường cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, mở rộng cuộc chiến tranh không quân ra miền Bắc, Người nói: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”.
Về mặt lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lênin đến với dân tộc ta qua Nguyễn Ái Quốc. Điều này đã được chính Người viết trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”(2). Người kể lại rằng: Sau khi đọc Luận cương của Lênin, Người đã tự nói với mình “Hỡi đồng bào bị đọa đầy, đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”(3).  Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, khái niệm dân chủ là chế độ, trong đó “nhân dân là người chủ; là “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”; “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân”(4)…
Là một người macxit, nhưng không phải là giáo điều mà luôn luôn vận dụng và phát triển sáng tạo những tư tưởng của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Với Người cách mạng không phải là “đạp đổ”, xóa bỏ mọi giá trị của xã hội cũ mà phải biết kế thừa những giá trị tốt đẹp, tiến bộ của nhân loại; biết giá trị gì cần thay đổi, những giá trị gì cần bảo vệ và phát triển. Với Người mục tiêu của cách mạng là giành lại độc lập dân tộc, quyền làm chủ của nhân dân. Trên nền tảng của 2 giá trị đó đi đến mục tiêu cuối cùng của cách mạng là tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Trong “Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(5).
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng rực rỡ cho trí tuệ và khí phách của dân tộc ta. Tại Khóa họp lần thứ 24 tại Paris (20-10 - 20-11-1987), Đại hội đồng UNESCO đã thông qua Nghị quyết 24C/18.65 về kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”, vào năm 1990. Đây là sự ghi nhận của quốc tế về công lao vĩ đại và tài năng xuất chúng trên lĩnh vực văn hóa của Người.
Có thể nói, những kẻ chống Hồ Chí Minh, xúc phạm Người cho dù họ là ai, cách thức thể hiện thô bạo hay bóng gió chỉ là hành vi tự vạch trần nhân cách thấp hèn của mình. 
TS. Cao Đức Thái

Nhận diện một số thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên in-tơ-nét, mạng xã hội và giải pháp phòng, chống


Cùng với sự chống phá trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, mấy năm gần đây, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng in-tơ-nét (interrnet), mạng xã hội để tuyên truyền, kích động chống phá Đảng, chế độ ta, với những thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc. Vì thế, nhận diện và đấu tranh làm thất bại mưu đồ đó của chúng là giải pháp cấp thiết hiện nay.
Những năm qua, sự phát triển nhanh chóng của in-tơ-nét, mạng xã hội đã đem lại những lợi ích không thể phủ nhận; từng bước khẳng định vai trò thiết yếu trong đời sống xã hội, trở thành môi trường cung cấp, chia sẻ, trao đổi, khai thác sử dụng thông tin cho mọi người và đang thâm nhập vào cuộc sống của con người trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Với đặc điểm nổi trội là tốc độ kết nối nhanh, phạm vi chia sẻ rộng, hiệu quả tác động lớn, in-tơ-nét, mạng xã hội trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống, tác động một cách trực tiếp, làm thay đổi nhận thức, hành vi của mỗi cá thể, qua đó tác động đến sự phát triển của toàn xã hội. Tuy nhiên, in-tơ-nét, mạng xã hội cũng bộc lộ những mặt trái và hệ lụy của nó đối với sự phát triển của đất nước nói chung, Quân đội ta nói riêng.
Nhận biết được điều đó, thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, lực lượng chống cộng cực đoan ở nước ngoài,… triệt để lợi dụng in-tơ-nét và các trang mạng xã hội để tán phát các tin, bài, videoclip có nội dung chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội ta với sự gia tăng cả về cấp độ, mật độ, tần suất và lưu lượng tin, bài,… bằng những chiêu thức, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm hiểm nhằm thu hút sự quan tâm, theo dõi của cộng đồng mạng. Qua đó, chúng thực hiện các biện pháp, thủ đoạn tuyên truyền, kích động, xuyên tạc, chống phá ta một cách quyết liệt, tung tin thất thiệt, lừa bịp, mị dân, thật giả lẫn lộn, làm cho một bộ phận cư dân mạng mất phương hướng, lầm tưởng rằng đó là sự thật, dẫn đến hoài nghi, thiếu niềm tin với Đảng, chế độ. Nổi lên một số thủ đoạn mới đáng chú ý là:
Thực hiện Live stream trực tiếp để kêu gọi cộng đồng mạng can thiệp vào nội bộ hoặc tham gia bình luận trái chiều trên mạng xã hội. Đây là thủ đoạn dùng tài khoản Facebook với công cụ Live stream để phát videoclip trực tiếp về một sự việc do chúng dựng lên hoặc “lên sóng” trực tiếp trên mạng xã hội để tạo “diễn đàn” kêu gọi mọi người tham gia bình luận về một vấn đề “nóng” được dư luận xã hội quan tâm. Thủ đoạn này được chúng xây dựng “kịch bản” khá công phu, nội dung chúng quay video phát trực tiếp thường là các vụ việc liên quan đến các cuộc biểu tình, khiếu kiện của tổ chức, cá nhân tại các cơ quan công quyền. Chủ đề chúng chọn thường là các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi thiết thực, bức xúc của người dân (môi trường, dân sinh, giải phóng mặt bằng, quan hệ ứng xử của cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang, thực thi công vụ của các lực lượng chức năng, v.v.). Thời điểm chúng chọn để Live stream thường vào dịp có các sự kiện chính trị của Đảng, Nhà nước (các kỳ họp, ngày lễ, ngày kỷ niệm, nguyên thủ các nước đến thăm Việt Nam,…); qua đó, chúng kêu gọi sự can thiệp của quốc tế và các tổ chức phản động vào Việt Nam, hoặc chúng lồng ghép quan điểm cá nhân, bình luận xuyên tạc, thu hút sự quan tâm của cộng đồng mạng, kêu gọi sự “phụ họa” của các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị tham gia bình luận, chia sẻ. Thông qua đó, chúng “vẽ ra” trong mắt công chúng một Đảng cầm quyền bất ổn, một nhà nước bị chia rẽ cục bộ, một hình ảnh quân đội yếu đuối, công an tham nhũng, v.v.
Cùng với đó, các thế lực thù địch còn sử dụng “khoảng trống thông tin” để tấn công vào sự hiếu kỳ của công chúng. Đây là thủ đoạn lợi dụng việc báo chí chính thống trong nước khi đưa tin đều phải qua quá trình tiếp cận thực tế, kiểm định nguồn tin, biên tập, thông qua mới cho đăng tin, bài. Thậm chí, để bảo đảm tính chính xác của thông tin và tính toán lợi ích của việc đưa tin, một số vấn đề cụ thể nào đó, có thể bị chậm trễ khi đưa tin. Lợi dụng “khoảng trống thông tin” này, chúng phát tán ồ ạt, trực tiếp những tin, bài xuyên tạc, bóp méo sự thật, thông qua những tiêu đề “giật gân”, “câu khách” về vấn đề dư luận đang quan tâm, nhất là vấn đề liên quan đến nội bộ Đảng, Nhà nước, tham nhũng, tiêu cực dưới các dạng như: thông tin sự việc, đặt câu hỏi, bỏ ngỏ vấn đề để bạn đọc suy ngẫm,… (Ai đứng đằng sau “Vũ Nhôm”, “Út Trọc”? Sau Đinh La Thăng là ai vào tù? Ai xếp hàng sau tướng Nguyễn Thanh Hóa,…), với những thông tin trộn lẫn thật giả, kích thích tính hiếu kỳ, tò mò của cộng đồng mạng muốn vào các trang Facebook, Blog và các tờ báo điện tử phản động, gây tâm lý hoang mang, bán tín, bán nghi, v.v.
Làm mới thông tin cũ, bịa đặt thông tin mới để chống phá Quân đội là thủ đoạn được chúng tiến hành khá “bài bản”. Thông tin cũ được lựa chọn để “làm mới” và “thông tin mới được lựa chọn để bịa đặt” thường là những đoạn videoclip hoặc hình ảnh có liên quan đến mối quan hệ cán bộ với chiến sĩ, cán bộ được cho là “hành hung chiến sĩ”, “chiến sĩ cũ đánh chiến sĩ mới”, các vấn đề liên quan đến dân chủ trong Quân đội, quan hệ quân dân,… do chúng tạo dựng nên hoặc các vụ việc đã được xử lý, giải quyết từ lâu nhưng chúng đưa ra “làm mới”; hoặc những thông tin mới, mặc dù đã có kết luận của các cơ quan chức năng nhưng chúng bịa đặt, xuyên tạc, bình luận một chiều. Thời điểm tán phát để “làm mới” hoặc bịa đặt thường là trước mùa tuyển quân, giao nhận quân, quá trình huấn luyện chiến sĩ mới, trước các sự kiện chính trị của đất nước, Quân đội, v.v. Mục đích của việc tán phát các thông tin, hình ảnh, đoạn clip nêu trên không thuần túy chỉ là sự phản ánh một vụ việc, một con người cụ thể, mà đằng sau đó là âm mưu và sự toan tính hết sức thâm độc của các thế lực thù địch. Chúng muốn đánh vào tâm lý lo lắng, sợ hãi trong nhân dân và thanh niên không muốn nhập ngũ vì sợ vào quân đội sẽ bị “đánh đập tàn bạo”, sẻ trở thành những “quân oan”, hoặc tâm lý chấp nhận “ma cũ bắt nạt ma mới” trong chiến sĩ; qua đó, gây dư luận trái chiều trong xã hội, kích động thanh niên trốn tránh nghĩa vụ quân sự, làm giảm sức mạnh chiến đấu, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong Quân đội. Từ các thông tin, hình ảnh, đoạn clip bị tán phát, sẽ gây nghi ngờ, làm mất đi hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, làm giảm niềm tin của một số cán bộ và các tầng lớp nhân dân về môi trường quân đội, cuối cùng là thực hiện mục tiêu “phi chính trị hóa” Quân đội.
Để ngăn chặn, hạn chế tác động tiêu cực của những thủ đoạn trên đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước, Quân đội, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau:
Một làtăng cường các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trước các thông tin xấu độc của các thế lực thù địch. Nội dung cần tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản về nền tảng tư tưởng, lý luận, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương; chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, tình cảm cán bộ, chiến sĩ, mối quan hệ đoàn kết quân dân. Đồng thời, phân tích luận giải làm rõ thực chất đằng sau luận điệu của các thế lực thù địch; đâu là thủ đoạn mới, tính chất nguy hại của nó là gì? để đấu tranh ngăn chặn, hạn chế tác động tiêu cực đến nhận thức, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ cần tiến hành các biện pháp gì, v.v. Qua đó, tạo sức “đề kháng”, khả năng “tự miễn dịch” đối với các tổ chức và cá nhân trước các thông tin xấu độc của các thế lực thù địch; trang bị cho họ những kỹ năng nhận biết và các giải pháp cơ bản để phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn.
Hai làphát huy vai trò của các cơ quan chức năng cung cấp thông tin có định hướng rõ ràng. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, việc làm chủ thông tin có vai trò hết sức quan trọng trong mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội; quyết định đến việc định hướng dư luận xã hội theo hướng tích cực, đúng với bản chất sự việc, tránh việc bị lợi dụng, tạo cớ, xuyên tạc; không để rơi vào thế “bị động”, “chống đỡ” mà phải “chủ động”, “tiến công” trong định hướng thông tin. Để thực hiện tốt việc này, các cơ quan tuyên giáo, thông tin truyền thông từ Trung ương đến cơ sở cần phát huy tốt vai trò chủ trì, phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể Trung ương, địa phương, các cơ quan thông tấn, báo chí trong cung cấp, định hướng thông tin, bảo đảm thông tin một nguồn, một chiều, nhanh, chính xác, kịp thời; khắc phục “khoảng trống” hoặc sự chậm trễ trong cung cấp thông tin,… làm sao để thông tin chính thống của Đảng, Nhà nước thường xuyên, kịp thời đến với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, luôn giữ vai trò chủ đạo, “dòng chủ lưu” trong định hướng dư luận xã hội.
Ba làphát huy sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, lực lượng trong đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Đây là biện pháp quan trọng nhằm khơi dậy tiềm năng và sức mạnh tổng lực của toàn xã hội trong tổ chức đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Để phát huy hiệu quả, cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đồng bộ, phù hợp, phân rõ trách nhiệm cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp; vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu, cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp. Đồng thời, có chính sách động viên, khích lệ phù hợp, bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị, dịch vụ, công cụ, phương tiện phù hợp để phục vụ nhiệm vụ đấu tranh.
Bốn làkết hợp chặt chẽ các nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức đấu tranh phù hợp với thực tiễn tình hình. Đây là biện pháp nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các loại hình đấu tranh nhằm mang lại hiệu quả thiết thực. Để làm được điều đó, cần kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh công khai trên báo chí với đấu tranh trực diện trên in-tơ-nét, mạng xã hội; đấu tranh trên báo chí, mạng xã hội với đấu tranh trên thực địa; giữa đấu tranh ngăn chặn sự tác động chuyển hóa từ bên ngoài với giữ vững sự ổn định từ bên trong nội bộ; giữa đấu tranh chính trị với sử dụng các biện pháp kỹ thuật, nghiệp vụ để ngăn chặn, bóc gỡ, vô hiệu hóa một số trang mạng, blog, Facebook phản động,… nhằm tạo ra một thế trận vững chắc trong tổ chức đấu tranh trên không gian mạng hiện nay.
Mỗi nhiệm vụ, giải pháp nêu trên có vị trí, vai trò, nội dung và yêu cầu thực hiện khác nhau, song có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Do vậy, trong chỉ đạo tổ chức đấu tranh, cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ tham mưu giúp việc cần có sự vận dụng linh hoạt trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, có biện pháp nhận định, đánh giá tình hình, tổ chức đấu tranh hiệu quả nhất, kịp thời nhận diện và phản bác quan điểm, tư tưởng, thông tin sai trái, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội của các thế lực thù địch trên không gian mạng, giữ vững ổn định đời sống xã hội.
Đại tá, TS. NGUYỄN NHƯ TRÚC, Phó Cục trưởng Cục Tuyên huấn
Nguồn: Tạp chí Quốc phòng toàn dân

Nhận rõ tình hình mới và các dạng quan điểm sai trái, thù địch

(TG) - Trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ, có hai vấn đề nổi bật cần được nhận rõ trước tiên. Đó là, từ tình hình mới trên phạm vi quốc tế và trong nước, tìm ra những nguyên nhân và nguyên cớ của những quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời phải nhận diện cho được các quan điểm sai trái, thù địch để đưa ra những đối sách thích hợp với từng đối tượng cụ thể.
1. Tình hình mới
Tình hình mới trên thế giới có thể nhận rõ qua những chuyển biến nổi bật.
Thứ nhất, sự chuyển dịch quyền lực theo hướng từ Tây sang Đông dẫn tới sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Sự chuyển dịch này đã và đang tác động đến quan hệ quốc tế, tập hợp lực lượng giữa các nước không chỉ trong phạm vi các khu vực mà biến động sâu sắc tới toàn cầu, làm cho tiến trình chuyển biến cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Trong bối cảnh như vậy, sự cọ xát và cạnh tranh chiến lược, điều chỉnh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, quyết liệt, tác động sâu rộng đến an ninh, chính trị thế giới.
Thứ hai, các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống ngày càng nghiêm trọng như: khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy diệt, thảm họa thiên tai, thảm họa môi trường sinh thái, nghèo đói và dịch bệnh, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh mạng... Cùng với đó, an ninh biển cũng đang nổi lên, không chỉ liên quan đến an toàn các tuyến đường hàng hải mà ngày càng mở rộng ra các khía cạnh khác như an ninh môi trường biển, các nguồn lợi hải sản. Do tác động của việc gia tăng các tranh chấp biển, đảo và các chuyển biến của an ninh phi truyền thống khác, an ninh biển sẽ trở thành một trong những vấn đề chi phối quan hệ giữa các nước.
Thứ ba, trào lưu dân túy, xu hướng bảo hộ có chiều hướng gia tăng mạnh mẽ ở các nước phát triển gây ra một số tác động khá tiêu cực. Các trào lưu dân túy cổ vũ cho việc xây dựng một nhà nước mạnh và chuyên chế nhưng kết quả lại làm tăng thêm các mâu thuẫn nội bộ, đẩy tình trạng bất ổn lên cao, làm cho chính sách đối nội và đối ngoại bất định. Trào lưu này chống liên kết, hội nhập quốc tế và khu vực, thậm chí ly khai khỏi các cơ chế đa phương, làm giảm hợp tác, tăng cạnh tranh, xung đột và do đó đưa đến những căng thẳng mới trong quan hệ quốc tế.
Xu hướng bảo hộ (hoặc còn gọi là chủ nghĩa bảo hộ) gần đây phát triển mạnh tại Mỹ và một số nước Tây Âu. Việc quay trở lại chủ nghĩa bảo hộ, đóng cửa thị trường, hạn chế liên kết kinh tế, giảm sự ủng hộ đối với tự do thương mại đa phương, cản trở thương mại và đầu tư quốc tế đã và đang tạo ra hệ lụy tiêu cực, làm chậm lại tiến trình tăng trưởng kinh tế thế giới. Xu hướng bảo hộ ở một số nền kinh tế lớn sẽ làm tăng mâu thuẫn, bất đồng vốn có về một số vấn đề kinh tế, thương mại, do đó làm gia tăng va chạm lợi ích, không loại trừ có những hành động “trả đũa” dẫn tới chiến tranh thương mại, tỷ giá. Tình hình đó làm cho liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu đứng trước nhiều khó khăn, toàn cầu hóa có xu hướng bị chậm lại.
Về tình hình trong nước: Chưa bao giờ tầm vóc của dân tộc, của đất nước ta lại rạng rỡ và mạnh mẽ như hôm nay. Điều đó làm cho công tác lý luận nói chung và cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng có một “cốt vật chất” vững chắc để thực hiện nhiệm vụ của mình. Nhưng mặt khác, những tồn tại, khiếm khuyết trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng đặt ra những thách thức không hề nhỏ. Nhiều vấn đề nảy sinh từ tính phức tạp của thực tiễn chưa được lường hết, có trường hợp từ sai lầm về nhận thức dẫn tới sai lầm về hành động, từ sự thiếu hiểu biết mà làm sai, làm ẩu, từ sự thiếu nhạy cảm nên chậm chạp để mất thời cơ, từ sự vi phạm nguyên tắc dẫn tới sự chệch hướng… Quá trình mở cửa hội nhập, chủ động làm ăn với các nước tư bản chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện toàn cầu hóa giữ vững định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra nhiều thách đố đối với công tác lý luận và có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Vận mệnh của chủ nghĩa xã hội phụ thuộc vào chính việc nhìn nhận rõ và khắc phục tốt những vướng mắc bên trong cả về lý luận và thực tiễn, nhất là trong giai đoạn quá độ, chủ nghĩa xã hội chưa hoàn thiện. Do vậy, trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, phải khắc phục cho được những khó khăn do bối cảnh thời đại, do tác động khách quan và cả do chủ quan duy ý chí, bảo thủ trì trệ, từ đó, khắc phục sự lúng túng và thiếu lý lẽ trong lập luận.
2. NHẬN DIỆN CÁC DẠNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH
Những quan điểm của các thế lực thù địch
Sau nhiều thập niên thực hiện chính sách thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, các thế lực thù địch đang thay đổi phương thức hoạt động. Mục tiêu nhất quán không thay đổi của chúng là chống phá tận gốc về tư tưởng chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, “phi chính trị hóa”, vô hiệu hóa quân đội và lực lượng công an, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.
Vừa qua, các thế lực chống cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội (CNXH) đã lợi dụng dịp kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười và 170 năm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” - tác phẩm kiệt xuất của Mác và Ăngghen, tập trung vào việc phê phán, đả kích chủ nghĩa Mác hòng làm lung lay nền tảng tư tưởng của chúng ta. Các thế lực thù địch tung ra đủ thứ lý luận nhằm bác bỏ chủ nghĩa cộng sản. Bên cạnh phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng tấn công vào đường lối của Đảng, tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đặc biệt là vào nguyên tắc tập trung dân chủ. Chúng đối lập Đảng với Nhà nước, đối lập Đảng, Nhà nước với nhân dân. Cùng với phủ nhận sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân, chúng phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên CNXH ở nước ta, phê phán triệt để, bôi đen CNXH hiện thực, công khai ca ngợi con đường tư bản chủ nghĩa (TBCN).
Mục tiêu của các thế lực thù địch là tập trung hướng vào nội bộ ta, tìm mọi hình thức, tinh vi hoặc trắng trợn, công khai hoặc bí mật, ráo riết làm cho nội bộ không ổn định, luôn luôn gieo rắc ngờ vực, nghi kỵ, giảm sút lòng tin hòng gây chia rẽ, lục đục nội bộ. Các chiến dịch tung tin thường tập trung vào các kỳ đại hội Đảng, kỳ bầu cử Quốc hội nhằm mục đích kích động, chia rẽ nội bộ. Xuất hiện nhiều luận điệu hết sức giản đơn nhưng thâm độc, nguy hiểm như “Phe thân Mỹ sẽ thắng và phe thân Trung Quốc sẽ thua” hay ngược lại…. Hoặc, hiện nay, công tác chống tham nhũng đang được Đảng và Nhà nước ta thực hiện một cách kiên quyết, công khai, minh bạch, được nhân dân đồng tình và tin tưởng, nhưng các thế lực thù địch lại xuyên tạc bóp méo, cho đó là cuộc đấu tranh thanh trừ nội bộ giữa các phe phái và các nhóm lợi ích.
Những quan điểm sai trái do các phần tử phản động, thoái hóa, cơ hội chính trị, bất mãn gây ra
Một số đối tượng lá mặt, lá trái, cơ hội chính trị, số phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích đang sống, làm việc thụ hưởng những thành quả cách mạng do Đảng và nhân dân mang lại, nhưng lại bí mật cộng tác với những phần tử bất mãn, phản động nước ngoài để mưu cầu lợi ích cá nhân. Số đối tượng này tiếp nhận, tán phát tài liệu có nội dung xấu, móc nối viết bài nói xấu chế độ, chống phá Nhà nước Việt Nam. Những bài viết được tung lên internet có nội dung tuyên truyền những quan điểm phản động, cực đoan chống Đảng, Nhà nước, kích động tụ tập đông người, biểu tình gây áp lực với chính quyền, đòi thả tự do cho những kẻ vi phạm pháp luật mà chúng gọi là “tù nhân lương tâm”…
Tư tưởng cơ hội hữu khuynh của những phần tử phản động thoái hóa, cơ hội chính trị không chỉ được xây dựng trên một cơ sở lý luận xét lại nào đó, mà còn là sự cóp nhặt hỗn tạp giữa trào lưu triết học, xã hội học tư sản hiện đại, song lại chưa thoát được căn bệnh giáo điều và bệnh thực dụng. Điều này thể hiện thái độ và lối sống cơ hội nhằm trục lợi cả chính trị và vật chất.
Có không ít người cơ hội trước kia đã từng giáo điều trong việc nhận thức về “sự thối nát, giãy chết của CNTB”, thì bây giờ họ lại “đảo chiều”, quay sang tôn sùng CNTB.
Các đối tượng còn phủ định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, công kích đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là định hướng XHCN. Trong phát triển kinh tế thị trường, tất cả các mũi tấn công đều nhằm vào phát triển mầm mống các nhân tố chống CNXH, thúc đẩy sự hình thành xã hội dân sự dưới tác động của hàng hóa, nguồn vốn phương Tây hòng hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân để lấn át kinh tế nhà nước, lôi kéo thêm lực lượng cán bộ, đảng viên yếu kém về nhận thức chính trị, có quan điểm sai trái.
Cùng với việc tung ra luận điệu trong Đảng có phe cải cách và phe bảo thủ, chúng tìm mọi cách bịa đặt, nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước, phát tán những cuốn nhật ký, hồi ký kể lể chuyện “giật gân” trong sinh hoạt của các nhà lãnh đạo, đề cao người này, hạ thấp người kia, kích động, chia rẽ lãnh đạo cao cấp của Đảng, gây nghi ngờ để chia rẽ nhân dân với Đảng.
Những quan điểm sai trái hình thành do trình độ nhận thức chính trị kém
Do tác động nhiều mặt, trong xã hội đã xuất hiện nhiều hiện tượng như chạy theo lối sống sinh hoạt văn hóa lai căng, dung tục, xa rời văn hóa truyền thống. Một số tác phẩm văn hóa có tư tưởng phủ định lịch sử, nhận thức sai về văn học, nghệ thuật, cổ súy cho những hành vi sai trái, lệch lạc.
Trong khi đó, một số cơ quan thông tấn báo chí nước ngoài đưa các tin, bài vu cáo ta vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo; mạng xã hội xuất hiện nhiều thông tin sai trái, bịa đặt mà không ít cán bộ, đảng viên và một bộ phận quần chúng nhân dân đã đọc, nghe không phân biệt được đúng, sai… dẫn đến có những cán bộ đảng viên đã biểu hiện dao động, mất lòng tin và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái tư tưởng về chính trị. Thực tế là, các thế lực thù địch luôn quan tâm lôi kéo tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, học sinh, sinh viên, coi đó là hướng hoạt động có tính chiến lược nhằm chuyển hóa tư tưởng của thế hệ điều hành đất nước trong tương lai. Do ảnh hưởng từ những chiêu bài dẫn dụ của các thế lực thù địch cùng với tác động của một số yếu tố khách quan, nên đã có những trí thức, sinh viên viết bài, bày tỏ cảm xúc cực đoan, tuyên truyền chống phá, nói xấu chế độ. Có một số cán bộ, đảng viên, trí thức cũng ngộ nhận, xoay chiều phê phán nguyên tắc tập trung dân chủ, thậm chí có người còn đòi xóa bỏ nguyên tắc này.
Khi tình hình thế giới và trong nước với cả mặt thuận và mặt trái đều có thể ảnh hưởng qua nhiều cách, nhiều chiều, trên nhiều phương diện thì việc nghe, nhìn, cũng như suy nghĩ của mỗi người trong điều kiện mở rộng dân chủ bên trong, hội nhập với bên ngoài ngày càng trở nên phức tạp. Điều đó có tác động lớn đến công tác đấu tranh tư tưởng. “Cây muốn lặng, gió chẳng đừng”, Đảng ta, nhân dân ta luôn mong muốn một môi trường ổn định, hòa bình để xây dựng một đất nước ấm no, tự do, hạnh phúc nhưng các thế lực thù địch không để chúng ta yên. Chúng thường xuyên chống phá chúng ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và xảo quyệt. Vì vậy, đấu tranh chống quan điểm sai trái luôn là nhiệm vụ tất yếu chúng ta phải làm.
Để làm thật tốt, cùng với việc tăng cường tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chúng ta cần chủ động nắm chắc tình hình tư tưởng, tâm trạng xã hội; sớm phát hiện và xử lý kịp thời những vụ việc phức tạp, nổi cộm mới phát sinh, những vấn đề bức xúc, không để các thế lực thù địch lợi dụng. Chủ động theo dõi và nắm bắt kịp thời các dạng quan điểm sai trái và những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, từ đó xác định những giải pháp đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả./.
___________________________________
GS.TS. Vũ Văn Hiền
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 5/2018