Phạm Trung
Những ngày tháng 12 lịch sử, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến hành nhiều hoạt động kỷ niệm chiến thắng lịch sử “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972, ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và ngày Quốc phòng toàn dân (22/12). Như thường lệ, những phần tử phản động, bất mãn trong và ngoài nước lại dùng mọi thủ đoạn hòng xuyên tạc lịch sử. Một trong những giọng điệu chống phá của chúng là: Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là do sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc!.
Sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta nói chung, chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” nói riêng giành được
thắng lợi luôn có sự giúp đỡ, ủng hộ không nhỏ về vật chất, tinh thần của bạn
bè quốc tế, trong đó có Liên Xô và Trung Quốc. Đây là một thực tế không thể phủ
nhận. Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội ta luôn biết ơn, không bao giờ quên
sự giúp đỡ to lớn ấy. Tuy nhiên, nếu cho rằng, chiến thắng “Điện Biên Phủ trên
không” là do sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc thì lại là một quan điểm phiến
diện, ngụy biện.
Trước khi tiến hành Chiến dịch Linebacker
II, chính quyền của Tổng thống Richard Nixon đã nắm rất chắc tình hình Việt
Nam. Hoa Kỳ biết chắc chắn rằng, vũ khí hiện đại nhất của Việt Nam lúc bấy giờ
là tên lửa phòng không SAM-2 (được Liên Xô viện trợ). Hoa Kỳ hiểu rất rõ về loại
tên lửa phòng không này, bởi vì năm 1967, Israel - đồng minh của Mỹ đã tịch
thu được hơn 20 hệ thống SAM-2 nguyên vẹn bị quân Ả Rập bỏ lại khi
rút chạy trong chiến tranh. Nhờ vậy Mỹ đã nắm được tường tận chi tiết của hệ thống
này. Đến năm 1970, các loại radar phòng không chủ yếu của Quân đội nhân dân Việt
Nam đều đã bị Mỹ nắm bắt, và đã chế tạo ra các thiết bị gây nhiễu rất hiệu quả.
Với một loạt các biện pháp kỹ thuật và chiến thuật, không quân Mỹ tự tin rằng hệ
thống phòng không của Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ không
thể chống trả được. Máy bay B-52 chỉ có thể bị rơi do thời tiết, hoặc do trục
trặc kỹ thuật chứ quyết không thể bị bắn rơi vì hỏa lực của phòng không - không
quân Việt Nam, cuộc tập kích của B-52 vào miền Bắc Việt Nam sẽ chỉ như “một
cuộc dạo chơi” với tổn thất ở mức tối thiểu.
Về phía Việt Nam, vào thời điểm năm
1972, SAM-2 là
loại tên lửa phòng không duy nhất có trong trang bị của Quân đội nhân dân Việt
Nam. Được sản xuất vào giữa thập niên 1950, SAM-2 đã tỏ ra khá lạc hậu, và còn
bị lộ bí mật công nghệ. Khi đó, Liên Xô đã thay thế loại tên lửa này bằng những
hệ thống SAM-4, SAM-5, SAM-6 có
tính năng cao hơn nhiều. Tuy nhiên, do chính sách hòa giải với Mỹ nên Liên Xô
đã không viện trợ những loại tên lửa mới này cho Việt Nam.
Sớm dự báo được âm mưu, thủ đoạn
không kích Hà Nội bằng B-52 của Mỹ, dưới sự lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân ủy Trung ương đã chỉ thị cho Quân chủng
Phòng không - Không quân nghiên cứu các biện pháp chống nhiễu, nghiên cứu cách đánh,
kiên quyết bắn rơi máy bay chiến lược B-52. Từ cuối năm 1968, qua trinh sát, theo
dõi, nghiên cứu, Quân chủng Phòng không - Không quân đã phát hiện ra một loại
radar máy bay B-52 không gây nhiễu được. Cuối năm 1971, ta đã có một cải tiến kỹ
thuật quan trọng: Dùng loại radar không bị máy bay B-52 gây nhiễu ghép nối với
đài điều khiển phục vụ tên lửa đánh B-52. Tháng 10 năm 1972, Quân đội nhân dân
Việt Nam đã hoàn tất cách đánh B.52, sẵn sàng ứng phó với bất kỳ cuộc không
kích nào bằng B-52 của Mỹ đối với Hà Nội.
Những luận cứ trên chưa thể lột tả
hết sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân ủy Trung
ương; tinh thần chủ động, sáng tạo, dũng cảm, mưu trí trong chuẩn bị chiến
đấu và chiến đấu của quân và dân ta nhưng cũng đủ để bác bỏ quan điểm cho rằng:
Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” là do sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc.
Đây là cách đánh giá phiến diện, ngụy biện hòng xuyên tạc lịch sử, phủ nhận
thành quả cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.
Chúng ta phải nhận biết và đấu tranh mạnh mẽ chống lại các luận điệu xuyên tạc, chống phá Việt Nam của bọn phản động và các thế lực thù địch
Trả lờiXóa