Thấu hiểu tầm quan trọng của đạo đức cũng như vai trò của cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục cho họ đạo đức cách mạng và Cần, Kiệm, Liêm, Chính (tứ đức). Với lòng yêu thương con người, muốn con người vươn tới sự hoàn thiện về mặt đạo đức, Hồ Chí Minh yêu cầu người nào cũng phải có đủ tứ đức nhưng “những người trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu”. Từ yêu cầu của thực tiễn đất nước, từ sự khắc ghi lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ đang ra sức phấn đấu trở thành một Chính phủ liêm chính. Tuy nhiên, mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi từng cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước phải thực sự liêm chính. Vì vậy, thực hành đức liêm, chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức ở nước ta hiện nay.
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Liêm
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình chân Nho và đạo đức Nho giáo có tác động không nhỏ đến tư tưởng cũng như triết lý nhân sinh củaNgười. Tuy nhiên, mỗi xã hội lại có hệ giá trị đạo đức của mình và hình mẫu con người đại diện. Nho giáo xây dựng nên hình tượng người quân tử, bậc trượng phu, kẻ sỹ với 5 chuẩn mực đạo đức (ngũ thường) là “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Hồ Chí Minh xây dựng hình mẫu người cách mạng với những chuẩn mực đạo đức cách mạng nhưng vẫn được biểu đạt bằng các phạm trù đạo đức Nho giáo quen thuộc. Bằng chứng là khi nói về đạo đức cách mạng, phần nhiều Hồ Chí Minh nói về tứ đức là “Cần, Kiệm, Liêm, Chính”, cũng có lúc Người xác định “đạo đức cách mạng phải gồm 5 điều sau đây: Trí - Tín - Nhân - Dũng - Liêm” và cũng có lần Người nói đạo đức cách mạng “gồm 5 điều: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm”. Như vậy, trong ngũ thường của Nho giáo không có đức Liêm nhưng với Hồ Chí Minh, Liêm tồn tại như một hằng số vì là một trong “tứ đức”, là một trong “ngũ thường” do Người đề ra. Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao đức Liêm và Người đã luận giải sâu sắc về đức Liêm như sau:
Trước hết, theo Hồ Chí Minh, Liêm là liêm khiết, “không tham ô và luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”. Liêm còn là trong sạch, không tham lam. “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình”. Cuộc đời của Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ: Với những người chỉ có “một ham muốn, ham muốn tột bậc” là độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân thì những thứ như tiền tài, địa vị, danh tiếng... không quan trọng đối với họ, họ “chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, trong sạch, liêm khiết, thanh liêm chính là Liêm.
Để mọi người hiểu rõ hơn về Liêm, Hồ Chí Minh còn đi sâu phân tích khái niệm tương phản - “bất liêm”. Nếu Liêm là không tham lam bất cứ điều gì thì “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là bất liêm”. Tương tự như chân lý - chân lý chỉ có một nhưng phản chân lý thì rất đa dạng, sự bất liêm có vô vàn biểu hiện. Tham tiền dẫn đến việc đục khoét của dân, trộm cắp của công, buôn gian bán lận, đầu cơ tích trữ, cho vay nặng lãi, cờ bạc, trộm cắp... Tham danh vọng, địa vị dẫn đến việc dìm người giỏi, mua bán danh vị, nịnh trên, nẹt dưới. Tham nhàn dẫn đến việc ngại khó, sợ khổ, đùn đẩy công việc cho người khác nhưng khi có công thì tranh, khi có tội thì đổ vấy. Tham sống dẫn đến sự hèn nhát, gặp giặc không dám đánh, thấy việc nghĩa không dám làm... Sự bất liêm đi liền với sự tham lam vô độ dẫn đến việc trộm cắp những cái thuộc về người khác. Vì thế, “công khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp”. Kẻ bất liêm cũng là kẻ vô liêm sỉ, không đủ sức phân biệt phải trái, đúng sai, không còn sự day dứt, xấu hổ khi làm điều xấu. Tức là, không có đức Liêm thì con người sẽ bị tha hóa trầm trọng về nhân cách.
Tiếp đó, Hồ Chí Minh chỉ ra giá trị của Liêm. Với mỗi con người, Liêm mang lại sự “quang minh chính đại” vì người liêm thì không tham lam nên không có gì mờ ám, khuất tất phải giấu diếm. Cũng vì không tham lam, không bị dục vọng làm mờ mắt nên tâm họ sáng mà tâm có sáng thì trí mới thông, nhận thức và hành động mới sáng suốt. Người có đức Liêm cũng là người có liêm sỉ, tức là biết phân biệt phải trái, đúng sai, biết hổ thẹn khi làm điều xấu, biết tự răn mình nên biết tránh điều xấu. Vì thế, càng ngày tâm họ càng sáng, trí họ càng cao. Tài đức thực sự do Liêm mang lại có khả năng tự tỏa sáng, tự thu hút nên người có đức Liêm sẽ tạo được uy tín và sự kính nể của những người xung quanh. Đức Liêm của người cán bộ sẽ tạo lòng tin của nhân dân vào chính phủ, vào chế độ. Nếu cán bộ không có được tứ đức, trong đó có đức Liêm “mà muốn được lòng dân, thì cũng như bắc dây leo trời”. Trên quy mô dân tộc thì đức Liêm cùng với Cần và Kiệm giúp cho dân tộc đó “giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh và tiến bộ”.
Sau khi luận giải về Liêm và giá trị của nó, Hồ Chí Minh bàn về đối tượng thực hành chữ Liêm. Người viết: “Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân, thì gọi là Liêm, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp... Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng hòa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn là mọi người đều phải Liêm”, tức là mọi người đều phải trong sạch, không tham lam. Chế độ dân chủ tạo ra sự bình đẳng giữa những con người và đưa mọi người vươn tới những chuẩn mực đạo đức mới. Sự thực hành chữ Liêm sẽ giúp tất cả mọi người tiến tới sự hoàn thiện về nhân cách và tạo ra sự chấn hưng đạo đức trên quy mô dân tộc.
Hồ Chí Minh không dừng lại ở việc phân định cái gì tốt, cái gì xấu, cái gì phải xây, cái gì phải chống mà còn đề ra các biện pháp giúp cán bộ và nhân dân rèn luyện đức Liêm:
- Phải tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Tuyên truyền để toàn dân thực hiện đức liêm là công việc hàng đầu nhưng tuyên truyền phải đi đôi với kiểm soát, sự thức tỉnh lương tri phải đi liền với các chế tài ràng buộc bởi tính tự giác, khả năng tiết chế lòng tham của mỗi con người là khác nhau.
- Cán bộ phải ra sức thực hành chữ Liêm bằng những việc cụ thể như “tuyệt đối không đem của công dùng vào việc tư, không động đến cái kim sợi chỉ của dân;... mua bán phải công bình, mượn cái gì phải trả tử tế, hỏng cái gì phải bồi thường”. Cán bộ nhất thiết phải Liêm vì họ cần làm gương cho dân, vì quyền hành mà họ có nếu không đi liền với lương tâm và liêm sỉ sẽ tạo cho họ cơ hội đục khoét của công, ăn của đút của dân. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ không chỉ thực hành chữ Liêm mà còn phải có trách nhiệm giáo dục đức liêm cho người khác, nếu không, dù họ trong sạch đến mấy vẫn chỉ là “Liêm một nửa”.
- Phải nâng cao trình độ dân trí của nhân dân. Thực tế cho thấy “quan tham bởi vì dân dại. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm, cũng phải hóa ra Liêm”. Dân trí không đơn thuần là kiến thức, là học vấn mà còn là trình độ giác ngộ dân quyền. Nếu người dân không am hiểu luật pháp thì họ không thực hiện được quyền kiểm soát của mình mà còn dễ bị “quan tham” lợi dụng, o ép. Hồ Chí Minh nhắc nhở nhân dân phải khéo dùng cái quyền làm chủ, quyền kiểm soát của mình để giúp cán bộ thực hành đức Liêm.
- Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề gì. Ở Hồ Chí Minh có sự hòa quyện chặt chẽ giữa đức trị và pháp trị. Người kiên trì giáo dục cán bộ thực hành đức Liêm, đồng thời ban hành nhiều sắc lệnh và đạo luật để răn đe, ngăn chặn, trừng trị những kẻ bất liêm, như Quốc lệnh (ký ngày 26-1-1946) quy định hai vấn đề trọng yếu là thưởng và phạt, trong đó quy định tội trộm cắp của công phải bị tử hình.
Sự kiên trì giáo dục đức Liêm của Hồ Chí Minh đã hình thành nên những lớp cán bộ vàng đầy đức hy sinh và một lòng liêm chính.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Chính
Kế thừa những hạt nhân hợp lý trong thuyết Chính danh, Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm của mình về Chính.
Trước hết, Người đưa ra định nghĩa: “Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn”, “là việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh”. Người có đức Chính là người chính trực, đúng mực, công tâm, họ luôn hành động theo lẽ phải, kiên quyết bảo vệ lẽ phải.
Thứ hai, Hồ Chí Minh chỉ ra tầm quan trọng của đức Chính bằng cách chỉ ra vị trí của Chính trong tứ đức. Một mặt, Người khẳng định: Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Điều này hoàn toàn đúng vì có Cần mới có cái để Kiệm và có Cần mới biết Kiệm; có Kiệm mới có thể Liêm; có Liêm mới có thể Chính. Mặt khác, Người cho rằng: “Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng phải Chính mới là người hoàn toàn”. Tức là, Chính dù là hệ quả của Cần, Kiệm, Liêm nhưng nó vẫn có tính độc lập tương đối, vì nhiều khi có đủ Cần, Kiệm, Liêm mà vẫn không thể Chính. Đức Chính đòi hỏi con người phải có sự chính trực, dũng cảm đấu tranh với cái xấu để bảo vệ lẽ phải. Do đó, Chính là đức khó thực hiện nhất trong tứ đức, là sự biểu hiện đầy đủ nhất của nhân cách con người.
Hồ Chí Minh còn đề cao vai trò của Chính thông qua việc coi Chính là cơ sở để phận định việc và người. Người cho rằng, xã hội tuy có trăm công, nghìn việc nhưng tựu chung lại thì chỉ có 2 loại việc: việc Chính và việc tà. Con người thì phụ thuộc vào việc họ làm mà chia ra thành người thiện và người ác. Như vậy, đức Chính thấm sâu, hiển hiện, chi phối mọi công việc, mọi con người trong xã hội. Ý nghĩa của Chính vô cùng sâu rộng nhưng vươn tới sự Chính thì rất khó khăn vì con người vốn “nhân vô thập toàn”. Vì thế, trân trọng cái tốt, vun đắp mầm thiện, mầm Chính trong mỗi con người, độ lượng và giúp con người sửa chữa khuyết điểm là thái độ cần có của người cách mạng.
Thứ ba, Hồ Chí Minh chỉ ra những biểu hiện cụ thể của đức Chính. Khi con người có 3 mối quan hệ là với mình, với người, với việc thì người có đức chính phải hành xử theo nguyên tắc:
- Đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự phê bình và lắng nghe phê bình để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân.
- Đối với người thì phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ, không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn có thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà.
- Đối với việc thì phải để việc công, lợi chung lên trước việc tư, lợi tư. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, làm đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước, cho dân bởi trong tiền đồ chung có tiền đồ của mỗi con người.
3. Xây dựng chính phủ liêm chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Người xưa luôn nhấn mạnh: Đạo làm quan phải lấy chữ Liêm, chữ Chính làm đầu bởi “thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Người đứng đầu mà không Chính thì ở dưới sẽ “quân hồi vô phèng”; người quản lý kinh tế mà không Liêm, không rõ ràng, minh bạch thì tất cả thi nhau xà xẻo. Hơn nữa, văn hóa phương Đông luôn đề cao lý tưởng “vua sáng, tôi hiền”, niềm tin của nhân dân vào chính thể luôn gắn liền với niềm tin vào nhà cầm quyền nên “kỷ cương phép nước” phụ thuộc nhiều vào sự liêm chính của những người có quyền “cầm cân, nảy mực”.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã quyết tâm xây dựng một nền chính trị liêm khiết. Người khẳng định: “Chính phủ sau đây phải là một chính phủ liêm khiết”. Để đạt mục tiêu đó, Người động viên cán bộ hy sinh những lợi ích vật chất để theo đuổi những giá trị tinh thần cao quý vì “sinh hoạt vật chất, hết thời người đó là hết. Còn tiếng tăm xấu hay tốt, sẽ truyền đến ngàn đời sau”. Sau đó, do đất nước có chiến tranh, con người phải đứng trước sự lựa chọn “chết vinh hay sống nhục” nên đức Trung, đức Dũng được đề cao.
Hiện nay, đức Liêm, đức Chính được đặt lên vị trí hàng đầu trong hệ giá trị đạo đức cách mạng. Lý do là bởi sự thiếu hụt trầm trọng đức Liêm, Chính trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Từ yêu cầu của thực tiễn khách quan, từ ý thức vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã khẳng định quyết tâm xây dựng một Chính phủ liêm chính. Trong lễ nhậm chức, lễ ra mắt Chính phủ cũng như trong các cuộc họp Chính phủ thường kỳ, từ Liêm Chính được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhiều lần nhắc đến và nó trở thành một tiêu chí hành động của Chính phủ. Song song với lời nói, trên thực tế, Chính phủ cũng đang tích cực hành động theo cam kết đó. Khi tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ Nam hành động của Đảng ta thì quan điểm của Hồ Chí Minh về đức Liêm, Chính của người cán bộ đã gợi mở cho Chính phủ một số giải pháp chính sau đây:
Thứ nhất, Đảng - lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội phải ra sức thực hành liêm chính. Hồ Chí Minh từng đưa ra một định nghĩa hết sức độc đáo về chính trị: “Tóm lại chính trị là: 1. Đoàn kết. 2. Thanh khiết từ to đến nhỏ”. Người còn định nghĩa về Đảng - một tổ chức chính trị dưới góc độ đạo đức và văn hóa: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Vì thế, muốn Chính phủ liêm chính thì Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền và mỗi đảng viên của Đảng phải giữ gìn đức liêm, chính. Đặc biệt, những người đứng đầu tổ chức Đảng phải là tấm gương thực hành liêm, chính. Nếu không như vậy thì nói không ai nghe, làm không ai theo, mọi lời nói, chỉ thị chỉ là sự hô hào sáo rỗng, thậm chí gây ra sự phản cảm.
Thứ hai, nâng cao ý thức thực hành đức liêm, chính, đẩy mạnh việc giáo dục tinh thần vì dân cho đội ngũ cán bộ,công chức, viên chức. Phải làm cho cán bộ, công chức, viên chức hiểu rằng “tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước, với dân”. Nếu cán bộ giữ được đức Liêm, Chínhthì họ không chỉ mang lại điều lợi cho dân cho nước, điều ích cho Đảng mà chính họ cũng có lợi ích lâu bền. Ngược lại, nếu không giữ được đức liêm, “khi lộ ra, bị phạt, thì mất hết cả danh giá, mà của phi nghĩa đó cũng không được hưởng”. Ai đó muốn có danh với đời thì phải thực hành lẽ sống vì dân chứ không vì mình. Đạo đức, tài năng, mức độ cống hiến chứ không phải địa vị, tiền bạc sẽ mang lại tiếng thơm cho con người. Công tác tuyên truyền, giáo dục của Đảng và Nhà nước phải làm cán bộ, công chức thấm thía điều đó.
Thứ ba, chấn chỉnh nghiêm túc công tác tuyển chọn, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức. Thấu hiểu cán bộ là gốc của công việc nên Hồ Chí Minh luôn căn dặn: Mình có quyền dùng người thì phải dùng người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn, mà kéo vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những người tài năng hơn mình. Vậy mà trong thời gian qua, có những người “thăng tiến thần kỳ”, có những nơi chức vụ lãnh đạo chủ chốt thuộc về những người trong một gia đình, dòng họ hoặc số lượng cán bộ quản lý còn nhiều hơn nhân viên... Khi có ý kiến bức xúc của dư luận thì những người có trách nhiệm đều khẳng định “việc bổ nhiệm đúng quy trình”. Quả thật, quy trình luôn có và rất chặt chẽ về bước đi nhưng nếu người thực hiện quy trình có động cơ cá nhân thì quy trình sẽ trở thành “tấm lá chắn”hữu hiệu cho việc “đem người tư làm việc công”. Để khắc phục căn bệnh mà Hồ Chí Minh gọi là “cánh hẩu”, nay phải quy định rõ trách nhiệm của người bổ nhiệm, phải tổ chức thi tuyển cán bộ, công chức công khai, phải vì việc mà tìm người chứ không phải vì người mà tìm việc. Tuy nhiên, cái gì cũng do ý thức của người thi hành quyết định. Ông cha ta đã đúc kết, rằng “tôn tộc đại quy, tôn lộc đại suy; tôn tài đại thịnh, tôn nịnh đại suy”, nếu dùng “người nhà” mà không dùng “người tài”, dùng kẻ siểm nịnh thay vì dùng người tiết tháo thì sự suy vi của chính thể là điều khó tránh khỏi.
Thứ tư, đẩy mạnh cải cách hành chính không chỉ theo hướng tinh gọn bộ máy mà phải thanh lọc bộ máy. Kiên quyết miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức hoặc buộc từ chức mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác đối với những cán bộ làm việc kém hiệu quả, có dấu hiệu bất liêm, có phiếu tín nhiệm thấp. Kiện toàn, thiết kế lại bộ máy quản lý để tránh sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, khi xảy ra sai phạm thì đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Việc hoàn thiện thể chế theo hướng công khai, minh bạch cần tiếp tục được đẩy mạnh vì ở đâu có sự minh bạch thông tin, ở đó không có chỗ cho tiêu cực, tham nhũng.
Thứ năm, phải chống tham nhũng thực sự quyết liệt. Một chính phủ liêm chính không dung thứ cho việc tham ô, tham nhũng vì “tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất trong xã hội”(24). Ở nước ta, mặc dù Luật Phòng, chống tham nhũng ra đời đã lâu và đã qua nhiều lần chỉnh sửa nhưng tình trạng tham nhũng vẫn “ổn định” và xuất hiện vấn đề mới như lợi ích nhóm, “sân trước, sân sau” trong các doanh nghiệp nhà nước. Nay muốn chống tham nhũng, trước hết phải nhận thức lại vấn đề tham nhũng, phải coi đó là “giặc” - giặc nội xâm như Hồ Chí Minh xác định chứ không chỉ là “quốc nạn”. Chống “giặc” thì phải kiên quyết, cứng rắn hơn nhiều so với chống “nạn”. Tiếp đó, phải hoàn thiện hệ thống luật pháp, phải có đủ chế tài để buộc cán bộ thực hành chữ Liêm. Thí dụ, cần bổ sung thêm Luật Kiểm kê tài sản vì minh bạch tài sản là “tấm khiên hữu hiệu” chống tham nhũng. Phải nhanh chóng đưa các vụ tham nhũng lớn ra ánh sáng và việc xét xử phải triệt để, không “thí tốt” và phải thu hồi tài sản tham nhũng cho dân. Bên cạnh đó, cần tăng cường hợp tác quốc tế về hỗ trợ tư pháp để tạo thuận lợi cho việc xử án tham nhũng có yếu tố nước ngoài và ngăn chặn các trường hợp tẩu tán tài sản, nhân sự bỏ trốn ra nước ngoài.
Thứ sáu, xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra, tư pháp đủ đức, đủ tài. Thực ra, “cực chẳng đã” thì người dân và doanh nghiệp mới phải “đáo tụng đình” và họ đặt niềm hy vọng cuối cùng vào cơ quan tư pháp. Sự tha hóa của chính quyền sẽ đến độ đỉnh điểm nếu những người bảo vệ pháp luật lại là những người phạm luật, phá luật. Vì thế, Hồ Chí Minh đã yêu cầu cán bộ thanh tra, tư pháp phải “chí công vô tư, không thiên vị, không thành kiến”, có tinh thần “phụng công, thủ pháp”.Bên cạnh các cơ quan thanh tra chuyên trách thì Nhà nước cũng phải tạo cơ chế để nhân dân tích cực và yên tâm thực hiện vai trò giám sát của mình.
Thứ bảy, tăng cường vai trò của báo chí trong việc giám sát, phản biện xã hội, phanh phui các vụ việc tiêu cực và tạo áp lực dư luận đối với những kẻ làm điều sai trái, “gây quanh chúng một không khí công chúng công phẫn và tẩy chay về mặt đạo đức. Phải không còn một ai vỗ vai gượng nhẹ với chúng nữa”. Các nhà báo phải dùng ngòi bút sắc bén của mình, dùng sức mạnh của báo chí để “phò chính, trừ tà”.
Quyết tâm của Chính phủ trong việc xây dựng một Chính phủ liêm chính là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, là sự đúc kết yêu cầu khách quan của cuộc sống nên rất đáng ghi nhận. Con đường đến đích chắc chắn sẽ là quá trình “tự cải tạo” hết sức đau đớn nhưng đó là bước đi tất yếu của lịch sử. Do đổi mới là một quá trình lâu dài, liên tục nên đến nay, khẩu hiệu “Đổi mới hay là chết” vẫn mang tính cấp thiết như ở thời điểm ra đời và nó phải trở thành phương châm hành động của Chính phủ cũng như của toàn hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
Bài viết rất hấp dẫn
Trả lờiXóa