Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin
là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, dân tộc ta. Đến văn
kiện Đại hội XII, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được biểu hiện sinh động trong sự vận
dụng sáng tạo, phát triển của Đảng, thực sự trở thành giá trị to lớn đối với
con đường đi lên của dân tộc.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Đây là bài học, kinh nghiệm được Đảng ta tổng kết, rút ra ở nhiều kỳ đại
hội gần đây. Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy có sự khác nhau trong
cách trình bày và nhận thức của Đảng ta về vấn đề này.
Đại hội IV (12-1976) khởi xướng bài học kinh nghiệm về độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội và nó tiếp tục được khẳng định tại Đại hội VII (6-1991) trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là:
“Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt
quá trình cách mạng nước ta”. Từ Đại hội VIII (6-1996) đến Đại hội X (4-2006),
Đảng ta đều trình bày quan điểm: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đại hội XI (01-2011) và Đại hội XII (01-2016), Đảng
ta có sự điều chỉnh, ngoài kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
thì Đại hội XI còn kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; Đại hội XII mở rộng hơn khi xác định đến cả sự “kế thừa và phát
huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”.
Sự khác nhau trong các cách trình bày trên cho thấy:
Một là, ở Đại hội IV, Đại hội VII của Đảng, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là bài học kinh nghiệm, là sợi chỉ đỏ trong toàn bộ tiến trình lịch
sử Việt Nam, còn các đại hội khác coi đó là bài học của quá trình đổi mới.
Hai là, ở Đại hội IV, Đại hội VII của Đảng, coi độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội là “ngọn cờ” lý luận, tư tưởng có vai trò như “sợi chỉ đỏ
xuyên suốt” để giải quyết thành công và tạo ra sức mạnh của cách mạng. Còn các
đại hội khác coi đây là mục tiêu của cách mạng và cơ sở lý luận, tư tưởng của sự
kiên định mục tiêu đó là “trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh”.
Ba là, ở Đại hội IV, Đại hội VII của Đảng, coi độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội là “nguồn gốc” của mọi thắng lợi, là “ngọn cờ vinh quang”
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho các thế hệ Việt Nam. Còn ở các đại hội khác
coi đây là vấn đề cần “giữ vững”, “kiên trì”, “kiên định”. Là “nguồn gốc”, là
“ngọn cờ” có nghĩa là còn phải khai thác, vận dụng mới có đáp số, có lời giải
cho yêu cầu của thực tiễn; nó chi phối mọi vấn đề của cách mạng. Còn “kiên định”,
“giữ vững” là bảo vệ vững chắc, không hề lay chuyển cái đã có, đã xác định và
nó chỉ nói đến một vấn đề là mục tiêu cách mạng.
Bốn là, riêng ở Đại hội XII, khi rút ra một số bài học sau 30
năm đổi mới, Đảng ta không chỉ đặt lên hàng đầu bài học về kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cũng không chỉ khẳng định cơ sở lý luận, tư tưởng
của mục tiêu này là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà nó đã mở rộng
ra rất nhiều. Cụ thể, Đại hội XII khẳng định: “Trong quá trình đổi mới phải chủ
động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”(1), bởi vì
trong quá trình đổi mới nói chung cũng như trong sự nhận thức về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta không chỉ dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn có cơ sở của truyền thống, tinh hoa
dân tộc, nhân loại và cả kinh nghiệm thực tiễn quốc tế.
Một điểm khác cũng cần lưu ý khi nhấn mạnh vấn đề này là việc cần phải đấu
tranh mạnh mẽ, không khoan nhượng với những luận điểm xuyên tạc của các thế lực
thù địch, cơ hội chính trị về con đường, mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa
chọn cho dân tộc. Chính vì vậy, việc Đại hội XII của Đảng ta tiếp tục khẳng định
bài học hàng đầu là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là minh chứng rõ ràng, dứt
khoát phủ định những luận điệu chống đối, xuyên tạc về nó thời gian qua.
Xây dựng Đảng về đạo đức
Trong phần mục tiêu chung xây dựng Đảng, Đại hội XII nêu rõ: “Xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Điểm mới ở
đây là lần đầu tiên trong văn kiện đại hội, cùng với chính trị, tư tưởng, tổ chức,
Đảng ta coi xây dựng Đảng về đạo đức là một nội dung trong công tác xây dựng Đảng.
Tuy nhiên, nói như vậy, không có nghĩa từ trước đến nay, vấn đề đạo đức trong Đảng
không được quan tâm.
Thực tế, đây là vấn đề đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra ngay từ khi
chuẩn bị thành lập Đảng cũng như trong suốt quá trình Người và Trung ương Đảng
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong cuốn “Đường cách mệnh”, Người dành ngay
trang đầu tiên để viết về tư cách đạo đức của người cách mạng. Sau này, đây là
chủ đề trọng tâm xuyên suốt trong nhiều tác phẩm của Người như: “Sửa đổi lối
làm việc” (năm 1947), “Đạo đức cách mạng” (năm 1958), “Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (năm 1969). Tổng kết 30 năm Ngày Đảng ta thành lập
(03-02-1930 - 03-02-1960), Người khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn
minh”(2). Như vậy, với Người, rèn luyện cán bộ, đảng viên phải chú trọng cả đức
và tài, tài là quan trọng nhưng đức là gốc, “người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Trước
lúc đi xa, Người còn Di chúc: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(3).
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lớp lớp cán bộ, đảng viên đã rèn luyện, phấn đấu
theo những giá trị và tấm gương đạo đức cao đẹp được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu
ra như trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Chính vì vậy, Đảng ta luôn vững vàng vượt qua mọi thử thách, được nhân dân tin
yêu, lãnh đạo toàn dân làm nên những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện
nay, Đảng ta vẫn luôn khắc sâu những lời dạy đạo đức đó của Người. Nhiều nhiệm
kỳ đại hội, Đảng ta đã phát động phong trào đẩy mạnh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người. Trong ba vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Đảng ta đã coi việc “kiên
quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống…”(4) trong cán bộ, đảng viên là vấn đề trọng tâm, xuyên suốt
và cấp bách nhất. Cũng chính trên cơ sở những “kết quả quan trọng” đạt được
trong công tác xây dựng Đảng của khóa XI, cùng những mặt hạn chế, yếu kém, khuyết
điểm còn tồn tại, Đại hội XII đã nêu cao nhiệm vụ “đẩy mạnh hơn nữa công tác
xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 khoá XI” và trong 6 nhiệm vụ trọng tâm Đại hội xác định cho nhiệm
kỳ mới, nhiệm vụ thứ nhất là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(5).
Đó là những nhận thức cơ bản trong xây dựng Đảng về đạo đức của Đại hội
XII. Nó có cơ sở lý luận và thực tiễn rất sâu sắc từ tư tưởng, bài học kinh
nghiệm lãnh đạo, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết
Tại Đại hội XII, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Đảng ta rút
ra kinh nghiệm thứ năm là “lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu cao nhất”.
Còn bài học thứ tư trong 5 bài học được Đảng ta rút ra khi nhìn lại 30 năm đổi
mới (1986 - 2016) là: “Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định
độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở
bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(6). Như vậy,
lần đầu tiên trong tổng kết quá trình lãnh đạo nói chung, Đảng ta khẳng định
“phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết” là một trong những bài học
quan trọng, cùng với các bài học về “kiên định”; “dân là gốc”; “tôn trọng quy
luật, thực tiễn”, “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Không
chỉ vậy, trong phương hướng, nhiệm vụ hoạt động đối ngoại, nếu văn kiện các kỳ
đại hội Đảng trước nêu: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc
gia, dân tộc”(7), thì văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đặt “bảo đảm lợi ích tối
cao của quốc gia - dân tộc” lên vị trí quan trọng hàng đầu. Đây là mục tiêu cao
nhất, quan trọng nhất, có ý nghĩa chỉ hướng, chi phối mọi hoạt động đối ngoại
trên tất cả các lĩnh vực. Nó không chỉ “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” mà “phải
lấy lợi ích quốc gia-dân tộc” làm xuất phát điểm, làm mục tiêu, đích hướng tới
để lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động đối ngoại và tham gia hội nhập quốc tế của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Những điểm chỉ ra ở trên phản ánh tư duy mới của Đảng ta về giải quyết
hài hòa mối quan hệ lợi ích quốc gia-dân tộc Việt Nam với các quốc gia trên thế
giới trong tiến trình tham gia toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Tuy
nhiên, xét trong tiến trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta, vấn đề lợi ích quốc
gia-dân tộc Việt Nam đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ rất sớm.
Như chúng ta đã biết, động lực chủ đạo thúc đẩy, chi phối Hồ Chí Minh
trên hành trình tìm đường cứu nước và đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin chính là
tinh thần dân tộc và lợi ích dân tộc. Đối với Người, quyền lợi dân tộc chưa đòi
được, thì “quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(8).
Vì vậy, khi thời cơ giải phóng dân tộc đến thì “dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng phải giành cho được độc lập”. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1945, Người
đã viết: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Và thực tế, trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp, Mỹ, Người luôn giương cao ngọn cờ, chân lý của dân tộc và thời
đại: Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, “Không có gì quý
hơn độc lập tự do”. Lợi ích dân tộc, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, còn là cơ sở để
phân biệt bạn - thù, tập hợp lực lượng: “Ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ
quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức
là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc,
cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào
là kẻ thù”(9).
Có thể nói, tôn chỉ và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh là suốt đời phấn
đấu vì quyền lợi dân tộc, hạnh phúc của nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong “Chính cương vắn
tắt” do Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khởi thảo đã khẳng định: Chủ trương làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Điều đó
có nghĩa, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn với hai cuộc cách mạng:
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, và chỉ có hoàn
thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội
và chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giữ vững được thành quả cách mạng giải
phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp
nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế, Đảng ta khẳng định “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên
hết”. Đó không chỉ là bài học rút ra qua 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đất
nước và hội nhập quốc tế, mà còn là vấn đề có tính quy luật của quá trình nhận
thức và đổi mới tư duy của Đảng ta trong lãnh đạo đất nước./
(1), (5), (6) Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Báo Nhân dân,
http://www.nhandan.com.vn/, Thứ Sáu, 25-03-2016
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 12, tr.
403
(3), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 15,
tr.622, 614
(4) Thông báo Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.83-84
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr.113
(9) Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tập 6, tr.18
ThS. Nguyễn Văn Đạo - Học viện Chính trị khu vực II
Nguồn: Tạp chí cộng sản điện
tử
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét