Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/ 12/ 1946)
như lời “Hịch” đối với toàn dân tộc trước họa xâm lăng của thực dân Pháp, nhưng
chứa đựng sự giàu có về giá trị nhân đạo, nhân văn - nhân văn quân sự. Sau 70
năm và sẽ mãi mãi về sau, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Người luôn mang
tính thời sự và giữ nguyên giá trị nhân văn quân sự.
Quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua nhiều giai đoạn gay go, phức tạp, nhưng
chưa lúc nào gay cấn được ví như “ngàn cân treo sợi tóc” vào thời điểm cuối năm
1946. Cùng một lúc, dân tộc ta phải đối mặt với nhiều kẻ thù như: quân Anh;
quân Tưởng Giới Thạch; quân Pháp và những đảng phái, các lực lượng phản động
trong nước nổi lên . Chúng cùng có âm mưu chống phá cách mạng, xóa bỏ chính
quyền nhà nước cách mạng non trẻ - Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã thay mặt Trung ương Đảng ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” vào
đúng thời điểm gay go, có tính quyết định nhất đến vận mệnh quốc gia, dân tộc.
Có thể tiếp cận giá trị Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ở các góc độ khác
nhau, nhưng nổi lên nhất là: “Giá trị nhân văn quân sự”.
Từ: “Hỡi…”
được dùng ba lần gắn với ba nội dung
khác nhau, nhưng thống nhất ở tinh thần thông báo tình hình nguy cấp, có tính
đột biến, khẩn trương để thức tỉnh nhận thức; nâng tầm cao mới về thái độ,
lương tâm, ý chí của mỗi con người Việt Nam. Chữ “Hỡi” trong mệnh đề đầu tiên
là: “Hỡi đồng bào toàn quốc”. Câu văn này gắn với nội dung thông báo tính khẩn
cấp của toàn cục tình hình đất nước, dân tộc. Tiếp đến là chỉ rõ, khẳng định
tinh thần nhân đạo, nhân văn của dân tộc ta: “Chúng ta muốn hoà bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng
chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp
nước ta lần nữa!”. Những cụm từ: “muốn hòa bình”; “phải nhân nhượng”; “càng
nhân nhượng” thể hiện một tinh thần không muốn diễn ra chiến tranh; làm rõ một
sự nhân nhượng đến tật cùng để có hòa bình. Tinh thần ấy càng được tôn lên khi
đặt trong quan hệ với âm mưu, thái độ thực dân Pháp là: “thực dân Pháp càng lấn
tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”. Những lời lẽ “càng lấn tới” ; “quyết
tâm cướp nước ta một lần nữa” đã đặt toàn dân tộc, mỗi con người Việt Nam vào tình
huống bức bách phải lựa chọn một trong hai: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại
nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập. Trước hai sự
lựa chọn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định một cách đanh thép bằng một từ: “Không!...”
để thể hiện rõ sự lựa chọn con đường
quyết tâm đánh giặc. Bằng từ “Không!” trong mệnh đề có giá trị như một “kích
hoạt” vào trạng thái tinh thần hiện có, để được nhân lên gấp bội lần qua sự
thức tỉnh đối với mỗi con người Việt Nam
trước họa xâm lăng. Quyết tâm ấy là: “… Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Bằng nghệ thuật diễn đạt
của lời “Hịch”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đẩy quyết tâm đánh giặc của toàn dân
tộc lên đến đỉnh cao nhất.
Những mệnh đề: “Chúng ta phải đứng lên!”; “Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải
đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Chữ “Hễ” vừa dễ hiểu, vừa dễ đi
vào nhận thức con người và cũng hàm ý không loại trừ một ai trong đánh giặc cứu
nước. Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến còn chỉ rõ cách thức cụ thể để bất cứ
ai cũng có thể đánh được giặc: “Ai có súng
dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng cuốc thuổng gậy gộc. Ai
cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước” ; “Ta phải hy sinh đến giọt máu
cuối cùng, để giữ gìn đất nước” đã thể hiện rõ một ý chí quyết tâm; một cách
thức thực hiện rất cụ thể và cho phép không loại trừ một ai; ai cũng có thể
tham gia đánh giặc. Những nội dung trên, cũng như cách diễn đạt dễ hiểu, nhưng
có chất kích thích tinh thần cách mạng rất mạnh mẽ.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến đã nhanh chóng đi vào tâm
thức, ý chí, quyết tâm mỗi con người dân tộc ta. Tinh thần Lời kêu gọi là sự
tiếp biến giá trị văn hóa quân sự trong truyền thống yêu nước đánh giặc lên đến
đỉnh cao nhất trong thời đại mới. Truyền thống của : “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư…” (thời Lý); tiếng hô “quyết
đánh” của các bô lão thời Trần trong Hội nghị Diên Hồng, đặc biệt là “Hịch
tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn; tư tưởng về “Cái nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân
điếu phạt trước lo trừ bạo” của Nguyễn Trãi; tinh thần thần tốc: “Đánh cho để
răng đen/ Đánh cho để tóc dài” (Quang trung),v.v đã được hun đúc trong Lời kêu
gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến có sức mạnh tinh thần to
lớn - sức mạnh của chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn Việt Nam từ chiều sâu truyền thống, diện
rộng của toàn dân, tầm cao của thời đại. Vì thế, nó trở thành sức mạnh vật chất
đánh bại đội quan viễn chinh của thực dân Pháp kéo dài chín năm bằng trận quyết
chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ được hiểu như “Điểm hẹn lịch sử”
giữa chủ nghĩa nhân văn quân sự Việt Nam với thực dân Pháp đại diện cho cái phản
nhân văn. Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của chính nghĩa; của chủ
nghĩa nhân đạo, nhân văn quân sự Việt Nam ; của sức mạnh yêu hòa bình
trước sự tàn bạo, vô nhân đạo của thực dân Pháp. Chỉ có chiến thắng ấy mới có
thể là: “Lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu” (Tố Hữu).
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến đã diễn ra 70 năm, nhưng
giá trị nói chung và giá trị nhân đạo, nhân văn quân sự Việt Nam vẫn nguyên giá trị. Nó là trường tồn, đồng
thời luôn có tính thời sự. Ôn lại giá trị nhân đạo, nhân văn quân sự từ Lời kêu
gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/ 12/ 1946) để nó có sức
sống mãnh liệt đối với mỗi con người Việt Nam đối với vận mệnh quốc gia, dân
tộc, chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
mới. Các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu đưa dân tộc ta quay về vòng nô
lệ mới. Trong bối cảnh chung ấy, diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch;
những nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã đặt toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta vào tình huống mới, phải tiếp tục phát huy giá trị từ Lời kêu gọi Toàn
quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngang tầm thời đại. Hiện nay, tập
trung vào khắc phục, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có hiệu lực, hiệu quả. Tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII về: “cả hệ thống chính trị phải vào cuộc”, tức là
mỗi con người Việt Nam
phải hành động một cách thiết thực.
Các thế hệ hôm nay có quyền tự hào về truyền
thống hào hùng của các thế hệ cha anh trong thực hiện “Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến”, làm nên chiến thắng, đồng thời phải thể hiện rõ trách nhiệm đối
với lịch sử, hiện tại và tương lai đất nước. Hiện nay có nhiều cái mới, nhưng vẫn
có thể nói: hễ là người Việt Nam thì phải
có trách nhiệm đối với ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ ấy bằng sức mạnh
của đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy chủ nghĩa
nhân đạo, nhân văn đến đỉnh cao, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh./. Thanh Nguyễn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét