Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng, Hiến pháp năm 2013
của Nhà nước và nhiều văn kiện các Đại hội Đảng đã khẳng định: “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động”. Sự khẳng định đó phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam qua
hơn 85 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải kiên
định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát
triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Trong thời gian gần đây, trên mạng in-tơ-nét và một số ấn phẩm in, đã xuất
hiện và tán phát những quan điểm sai trái, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin để từ đó phủ nhận chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hãy phân tích một số trong những quan điểm đó.
Hãy phân tích một số trong những quan điểm đó.
1- Về quan điểm quy chủ nghĩa Mác - Lê-nin về tư tưởng
“đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội”.
Như chúng ta biết, phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp không
phải là công lao của C. Mác. Trong Thư gửi Vây-đơ-mai-ơ, ngày
5-3-1852, Mác viết: “...tôi không có công lao là đã phát hiện ra sự tồn tại của
các giai cấp trong xã hội hiện đại, cũng không phải có công lao là đã phát hiện
ra cuộc đấu tranh giữa các giai cấp với nhau. Các nhà sử học tư sản trước tôi
rất lâu đã trình bày sự phát triển lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp đó, còn
các nhà kinh tế học tư sản thì đã trình bày sự giải phẫu kinh tế của các giai
cấp. Cái mới mà tôi đã làm là chứng minh rằng: (1) sự tồn tại của các
giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất,
(2) đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, (3) bản
thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai
cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp”(1).
Như vậy C. Mác không coi đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã
hội nói chung như một số người quan niệm, mà chỉ là một động lực phát triển của
xã hội có đối kháng giai cấp mà thôi. Trong xã hội cộng sản
nguyên thủy chưa có giai cấp nên chưa có đấu tranh giai cấp, và sau này trong
tương lai khi xã hội không còn giai cấp nữa thì cũng sẽ không còn đấu tranh
giai cấp. Nghĩa là, như C. Mác đã khẳng định, đấu tranh giai cấp chỉ gắn với
những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển xã hội.
Quan điểm khoa học về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác
không phải là áp đặt, vô căn cứ mà phản ánh một thực tế khách quan trong xã hội
có phân chia giai cấp, đó là sự đối kháng giữa các giai cấp: bóc lột và bị bóc
lột, thống trị và bị trị, áp bức và bị áp bức. Do đó, đấu tranh giai cấp trong
các xã hội này là tất yếu khách quan, góp phần thúc đẩy xã hội vận động, phát
triển lên những hình thái cao hơn.
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác không bao giờ coi đấu tranh giai cấp là động
lực duy nhất trong xã hội có giai cấp. Ngoài động lực này, như
C. Mác đã từng chỉ ra, còn một loạt những động lực khác, như sự phát triển của
lực lượng sản xuất, nhu cầu, lợi ích, lý tưởng, khoa học - kỹ thuật,... Vì vậy
không nên cường điệu động lực đấu tranh giai cấp.
Đồng thời, việc nhận thức và giải quyết vấn đề giai cấp và đấu tranh giai
cấp phải phù hợp với tình hình thực tiễn, điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi
quốc gia dân tộc và phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Trước đây khi
phân tích so sánh về đấu tranh giai cấp ở các nước phương Tây và phương Đông,
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cho rằng, ở phương Tây đấu tranh giai cấp rất quyết
liệt, còn ở phương Đông, những nước như “Ấn Độ hay Trung Quốc về mặt cấu trúc
kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời Trung cổ cũng như thời cận đại,
và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”(2). Đối với Việt Nam
cũng vậy, vì Việt Nam vốn là một xã hội phương Đông cổ truyền, nông nghiệp lạc
hậu, hơn 90% dân số là nông dân, phân hóa giai cấp chưa sâu sắc. Từ khi thực
dân Pháp xâm lược nước ta, yêu cầu đoàn kết dân tộc nổi lên hàng đầu để tập hợp
các lực lượng, các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội vào thực hiện nhiệm vụ
cứu nước, giải phóng dân tộc. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã phê phán quan điểm giáo
điều của một số người về đấu tranh giai cấp ở Việt Nam: “Nghe người ta nói giai
cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn
cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”(3).
Ở đây không được phép lẫn lộn quan điểm khoa học về đấu tranh giai cấp của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin với quan điểm hữu khuynh phủ nhận đấu tranh giai cấp
hoặc quan điểm tả khuynh cường điệu đấu tranh giai cấp, thiên về trấn áp bạo
lực, hoặc mượn danh đấu tranh giai cấp để đấu tố, trấn áp những người “không ăn
cánh”, không theo đường lối của mình, có tính chất bè phái như đã từng xảy ra ở
một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức mới về
chuyên chính vô sản và đấu tranh giai cấp. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng
3-1989) lần đầu tiên đã sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” thay cho khái
niệm “hệ thống chuyên chính vô sản”. Từ đó về sau, trong Cương lĩnh năm 1991 và
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), trong các văn kiện từ Đại hội VII
đến Đại hội XI ít sử dụng thuật ngữ chuyên chính vô sản. Đây là một bước tiến
của nhận thức, phù hợp hơn với điều kiện tình hình mới.
Về đấu tranh giai cấp, Đại hội IX của Đảng nhận định, cùng với những biến
đổi to lớn về kinh tế, xã hội thì cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp
trong xã hội ta đã thay đổi nhiều. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp
xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp
tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng
xã hội; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực;
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù
địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Đại hội IX cũng xác định động lực chủ yếu để phát triển
đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với
nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực từ các thành phần kinh tế
của toàn xã hội.
Như vậy, Đảng ta không phủ nhận đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ,
song quan niệm về đấu tranh giai cấp cũng như động lực phát triển đất nước phù
hợp hơn với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, với nhiệm
vụ của cách mạng trong thời kỳ đổi mới.
2- Về cái gọi là “chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan thể
hiện dưới hình thức chủ nghĩa Mác - Lê-nin”. Quan điểm này đem quy chủ nghĩa Mác - Lê-nin về “chủ nghĩa chia rẽ và
cực đoan”, đối lập với tư tưởng “đoàn kết và thống nhất của học thuyết Hồ Chí Minh”.
Đây là sự quy chụp, áp đặt cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách vô căn cứ.
Bởi vì chia rẽ, cực đoan không phải là bản chất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà
đó là tư tưởng và hành động sai lầm của những người theo chủ nghĩa chia rẽ, bè
phái, tả khuynh hoặc hữu khuynh… Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một hệ thống các
nguyên lý, quy luật khoa học phản ánh những quy luật khách quan của thế giới,
dựa trên phương pháp biện chứng duy vật với các quan điểm khách quan, toàn
diện, phát triển, lịch sử - cụ thể và thực tiễn chứ không phải dựa trên sự chia
rẽ và cực đoan, phiến diện. Không thể đồng nhất, lẫn lộn những sai lầm đó với
chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trên thực tế, như chúng ta biết, C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin luôn nêu
cao tinh thần đoàn kết, thống nhất trong phong trào cách mạng. Trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đưa ra khẩu hiệu “Vô
sản toàn thế giới hãy đoàn kết lại!”. Về sau này V.I. Lê-nin bổ sung thêm: “Vô
sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức hãy đoàn kết lại!”. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, xây dựng các chính đảng cách mạng, C. Mác, Ph. Ăng-ghen,
V.I. Lê-nin đều yêu cầu phải đoàn kết, thống nhất để tạo thành sức mạnh của tổ
chức cách mạng. V.I. Lê-nin coi giữ gìn sự đoàn kết trong đảng cộng sản như giữ
gìn con ngươi của mắt mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn Đảng. Thực tiễn
cách mạng Việt Nam cho thấy, khi nào đoàn kết thì thắng lợi, chia rẽ là thất
bại. Đảng đấu tranh chống lại tư tưởng và hành động cực đoan, phiến diện, duy ý
chí, chia rẽ, bè phái. Coi chia rẽ, bè phái là một trong những tội nặng nhất,
làm phá hoại tổ chức đảng. Tổng kết 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng đã rút ra bài học quan
trọng: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết
toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền
thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công,
đại thành công”. Đảng cũng khẳng định, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc là động lực chủ yếu, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Có ý kiến cho rằng “ngày nay chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan làm cho Việt Nam
hòa bình đã gần 40 năm, song vẫn còn bị chia rẽ”(!).
Ý kiến trên đây là cực đoan, phủ nhận thực tế lịch sử. Trước kia đất nước bị
chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau là do sự xâm
lược của đế quốc Mỹ muốn xâm chiếm Việt Nam, chia cắt đất nước ta. Để giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước nhân dân ta phải tiến hành cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước trong suốt 20 năm. Đến ngày 30-4-1975 với chiến dịch Hồ Chí
Minh đại thắng, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước được hòa bình,
thống nhất. Đối với những người đã từng tham gia chế độ cũ trước đây, đường lối
của Đảng và Nhà nước ta là khép lại quá khứ, hướng tới tương lại, lấy lợi ích
của Tổ quốc, của dân tộc làm mẫu số chung để đoàn kết toàn dân, lấy dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm mục tiêu chung, làm điểm tương
đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, tôn trọng
những người có ý kiến khác, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi
ích chung của dân tộc; thực hiện hòa hợp dân tộc, đề cao truyền thống nhân
nghĩa, khoan dung... để tăng cường đồng thuận xã hội, tập hợp đoàn kết mọi
người vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ có những người nào sau 40
năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước rồi nhưng vẫn “ôm mối hận thù dân
tộc”, vẫn bị định kiến chi phối, không vượt qua được sự mặc cảm của quá khứ mới
tách mình ra khỏi dân tộc, thậm chí tìm cách chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Một bộ phận nhỏ người Việt Nam ở nước ngoài do thiếu thông
tin khách quan, trung thực về tình hình trong nước, vẫn ôm hận thù với Nhà nước
Việt Nam, tìm cách chống phá Đảng và Nhà nước ta, từ vu khống Việt Nam đàn áp
tôn giáo, dân tộc thiểu số, vi phạm dân chủ, nhân quyền, đến vận động các thế
lực thù địch tiếp tục chống phá Việt Nam. Chính những người này mới là lực
lượng theo chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan.
3- Về quan điểm coi “Đảng lãnh đạo mắc sai lầm trong
việc kiên định quá lâu mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin - một mô hình lạc hậu của một hệ thống tư
tưởng lỗi thời và từ lâu đã bị xếp vào kho tàng lịch sử, làm cho Việt Nam tuy
đã có gần 40 năm hòa bình, thống nhất, song đến nay vẫn trì trệ, suy thoái và
hiện đang bên bờ khủng hoảng”(!).
Quan điểm này thực chất là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, phủ nhận những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử của nước ta sau gần 30 năm đổi mới.
Trước hết, phải khẳng định quan điểm cho rằng “Việt Nam kiên định quá lâu
mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết” là không đúng thực tế. Với công cuộc đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay, Đảng ta đã từ bỏ mô
hình này, một mô hình có nhiều khuyết tật, như dựa trên cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, phủ nhận kinh tế thị trường, triệt tiêu nhiều động lực phát
triển… Đảng ta đã tự phê bình sai lầm giáo điều trong việc áp dụng mô hình Liên
Xô trước đây. Đảng đã tiến hành đường lối đổi mới, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận
và tổng kết thực tiễn để xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã xác định 8 đặc trưng của xã hội
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 8 phương hướng cơ bản và 8 mối quan hệ lớn cần nắm
vững là sự khái quát lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Lý luận đó cần được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bổ sung và
phát triển để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cách mạng.
Còn chủ nghĩa Mác - Lê-nin ngày nay vẫn là học thuyết tiên tiến của loài
người, điều đó không chỉ những người mác-xít thừa nhận mà cả một số học giả tư
sản cũng thừa nhận. Ví dụ, Giắc Đê-ri-đa, nhà triết học nổi tiếng người Pháp
coi C. Mác không chỉ là nhà tư tưởng của thế kỷ XX mà còn là nhà tư tưởng của
thế kỷ XXI, ông khẳng định nhân loại không thể thiếu C. Mác được. Chương
trình Thời đại chúng ta trên sóng phát thanh radio 4 của đài
BBC tại Anh đã tổ chức thăm dò với 3 vạn phiếu phát ra. Kết quả trong số 20
triết gia vĩ đại được đưa ra để lựa chọn, C. Mác được chọn là triết gia vĩ đại
nhất của nhân loại từ trước đến nay bởi những cống hiến khoa học xuất sắc của
ông. Giáo sư Đại học Tổng hợp Lancaste (Vương quốc Anh) Tê-ry I-gle-tơn trong
tác phẩm “Tại sao Mác đúng?” vẫn khẳng định tính đúng đắn của
những quan điểm của Mác trong điều kiện thế giới ngày nay, ông phản bác ý kiến
cho rằng “chủ nghĩa Mác đã chết và không còn nhắc đến nữa”. Ở các nước xã hội
chủ nghĩa, như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Lào và ở nhiều đảng cộng sản và
công nhân trên thế giới, như Đảng Cộng sản Liên bang Nga, Đảng Cộng sản Pháp,
Đảng Cộng sản Nhật Bản... vẫn khẳng định vai trò của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa
xã hội khoa học.
Khi đánh giá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cần phân biệt những giá trị bền vững
của những nguyên lý cơ bản của nó với một số luận điểm cụ thể của C. Mác, Ph.
Ăng-ghen, V.I. Lê-nin đúng trong thời đại của các ông nhưng đã bị lịch sử vượt
qua trong điều kiện mới của thời đại, nhất là không được lẫn lộn chủ nghĩa Mác
- Lê-nin với những nhận thức sai và làm trái với chủ nghĩa Mác - Lê-nin của
những người lãnh đạo của đảng này hay đảng khác, ở nước xã hội chủ nghĩa này
hay nước xã hội chủ nghĩa khác trước kia hoặc hiện nay. Cần phân biệt chủ nghĩa
Mác - Lê-nin với quan điểm chủ nghĩa xét lại, cơ hội giả danh mác-xít, cố tình
xuyên tạc, vu khống chủ nghĩa Mác - Lê-nin để chống chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Cần nhận thức rõ rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một học thuyết mang bản
chất cách mạng và khoa học, nó không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho
hành động, nó không phải “nhất thành bất biến”. Vì vậy, phải vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với thời đại, với điều kiện
lịch sử mỗi nước, mỗi giai đoạn. V.I. Lê-nin đã từng nhấn mạnh: việc áp dụng chủ
nghĩa Mác ở Nga phải khác với ở Đức, Anh, Pháp...; vì chân lý luôn luôn là cụ
thể nên cách mạng phải sáng tạo. Phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể là bản
chất, “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác.
Đối với cách mạng Việt Nam, vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã
được khẳng định trong hơn 85 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ khi đến được với chủ nghĩa Mác - Lê-nin mới tìm thấy
con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Năm 1924, khi đọc Luận cương
của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã thấy “Đây
là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”(4). Trong
cuốn Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc viết rằng, bây giờ chủ
nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhấn, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin. Về sau trong nhiều tác phẩm, bài
diễn văn của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò chủ nghĩa Mác -
Lê-nin và yêu cầu học tập, tu dưỡng và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lê-nin. Người coi chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “cái cẩm nang” thần kỳ, “kim chỉ
nam” cho cách mạng Việt Nam. Người viết: “Đảng ta nhờ kết hợp được chủ nghĩa
Mác - Lê-nin với tình hình thực tế của nước ta, cho nên đã thu được nhiều thắng
lợi trong công tác”(5); “Học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin... là học tập những
chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để áp dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta”(6); “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ
nghĩa Mác - Lê-nin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác -
Lê-nin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn
những đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần hiểu được
quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối,
phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình
hình nước ta”(7).
Việc đem đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin để phủ
nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin là rất sai lầm về quan điểm và phương pháp, về lịch
sử và lô-gíc. Bởi vì, về mặt lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được
hình thành từ các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa
của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lê-nin thông qua hoạt động trí tuệ
và thực tiễn của Người. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chính là nguồn gốc lý luận, là
cơ sở chủ yếu nhất hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã vận
dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để nghiên
cứu thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam, vượt lên trước những nhà
yêu nước đương thời, khắc phục được sự khủng hoảng về con đường tiến lên của
dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát
triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại mới. Như vậy về
mặt lô-gíc, về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác
- Lê-nin chứ không có sự đối lập với chủ nghĩa Mác - Lê-nin như một số người
tưởng tượng ra. Và do đó cũng không có cái gọi là “cuộc nội chiến về tư tưởng
giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin” từ năm 1930 đến nay ở Việt
Nam như có người xuyên tạc. Hồ Chí Minh là người đã vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhờ vậy Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo,
đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vì vậy, không
thể nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh để hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lê-nin.
Vì vậy Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng phải nắm
vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh”(8)
Còn ý kiến cho rằng sau 40 năm giải phóng đến nay đất nước vẫn trì trệ, suy
thoái, hiện đang bên bờ khủng hoảng (!).
Nói như vậy là nhắm mắt trước thực tế, bất chấp lịch sử, không khách quan.
Sau 30 năm đổi mới, như Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn
của Đảng đã khẳng định, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát
triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, phát
triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường. Văn hóa,
xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay
đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh
mọi mặt của đất nước được tăng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng
mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục phát triển
trong những năm tới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Những thành tựu đó khẳng định đường lối đổi mới của Đảng
là đúng đắn, sáng tạo, được quảng đại nhân dân thừa nhận và bạn bè quốc tế đánh
giá cao.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, đất nước ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức, còn nhiều hạn chế, yếu kém phải khắc phục, phấn đấu nỗ lực vượt qua, tận
dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức, biến thách thức thành cơ hội phát triển đất
nước nhanh và bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa./.
--------------------------------------------
(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1996, t. 28, tr. 661 - 662
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 509
(3) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 5, tr. 312
(4) Hồ Chí Minh: Sđd, 2002, t.10, tr.127
(5), (6), (7) Hồ Chí Minh: Sđd, 2011, t. 11, tr. 97, 611, 92
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 66
Lê Hồng
nguồn: Tạp Chí Cộng sản điện tử
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét