Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một bộ phận không tách rời của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng nhân văn đó là sự hợp lưu những giá trị tinh tuý
của nhân loại và dân tộc, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - lênin và gắn với
cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại của Người, bởi vậy nó đã tạo ra sức hấp dẫn
mạnh mẽ vượt qua mọi không gian và thời gian. Sức hấp dẫn và giá trị trường tồn
của nó không phải chỉ đối với chúng ta, mà còn đối với cả nhân loại cần lao đã
và đang đấu tranh cho những giá trị thực sự của con người. Đại tướng Võ Nguyên
Giáp, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ tư tưởng của
Người đã kế thừa những giá trị tư tưởng, văn hoá vĩnh cửu của nhân loại thấm
đượm một chủ nghĩa nhân văn cao cả, đáp ứng những yêu cầu, nguyện vọng cháy
bỏng và sâu xa của dân tộc và nhân loại. Và cả cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người là một tấm gương, một biểu hiện tiêu biểu nhất cho chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản”[1].
Chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học để giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, sức sống mạnh mẽ của
học thuyết đó chính là ở tính nhân văn, nhân đạo hiện thực và bản chất cách
mạng, khoa học của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
thấm đượm tính nhân văn, nhân đạo và bản chất cách mạng, khoa học của học
thuyết ấy. Tư tưởng nhân văn của Người
có sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc ta với tư tưởng cách
mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin và những tinh hoa văn hoá nhân loại.
Theo đó, với một cuộc đời “hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân”[2] từ tư tưởng đến đạo đức và tác phong của
Người luôn thấm đượm chất nhân văn cao cả, sâu sắc. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh là tư tưởng nhân văn hiện thực, khác xa với “tình yêu thương” trìu tượng
của một số học thuyết triết học và của các tín điều tôn giáo trong lịch sử. Ở
Người là một lý tưởng và hành động cách mạng kiên định; một tâm hồn bác ái, đầy
bao dung đối với con người cho đến những ngày tháng cuối đời.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có một nội hàm
hết sức phong phú và sâu sắc. Triết lý nhân văn cao cả của Người là: “Nghĩ cho
cùng, mọi vấn đề...là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương
nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức”[3].
Trong di sản tư tưởng vĩ đại của mình, Hồ Chí Minh đã để lại một hệ thống các
luận điểm khoa học về con người. Quan niệm về “con người” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được bàn đến với nhiều nghĩa khác nhau trong các mối quan hệ xã hội cụ thể.
Nhưng tiếp cận nhân văn của Người luôn có sự thống nhất giữa tính khoa học với
tính giai cấp và tính dân tộc. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được biểu hiện đậm
nét ở nhiều vấn đề liên quan đến con người; đến sự nghiệp giải phóng con người
và kiến tạo một xã hội mới thực sự vì con người. Đó là tình cảm nhân ái, thương
yêu, quí trọng đối với những con người cần lao, cùng khổ; là tấm lòng bao dung,
vị tha rộng lớn; tin tưởng mãnh liệt vào con người và lực lượng vĩ đại của nhân
dân; quan tâm đến lợi ích chính đáng của con người, của các dân tộc; coi trọng
phát huy động lực của con người, của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng; chăm
lo giáo dục, xây dựng con người phát triển toàn diện vừa “hồng”, vừa
“chuyên”.v.v...Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩâ
Mác - Lênin, Người đã vạch ra nguồn gốc của mọi sự nghèo khổ, bất công và nghịch
lý xã hội đối với con người trong đời sống hiện thực. Và chính Người đã chỉ ra
con đường, phương pháp cách mạng đúng đắn để giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội và giải phóng con người.
Trong di sản tư tưởng và toàn bộ cuộc đời
hoạt động cách mạng vĩ đại, đầy gian khổ hy sinh của Người ở đâu và vào thời
điểm lịch sử nào cũng toát lên một tinh thần nhân văn cao cả Hồ Chí Minh. Ngay
từ những ngày đầu ra đi tìm đường cứu nước, Người đã phẫn uất và rơi lệ khi
những người lao động da đen bị sóng nhấn chìm trên biển cả; tiếp đó, Người ra
sức đấu tranh và bênh vực các dân tộc bị áp bức giành lại quyền sống, nhân phẩm
và tự do. Cuộc đời của Người là cuộc đời vì dân, vì nước, đấu tranh không mệt
mỏi cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Sau
này, khi trở thành người đứng đầu Đảng và Nhà nước Người vẫn dành tất cả tấm
lòng hiền từ ấm áp của một người cha cho tất cả đồng bào, chiến sĩ, con cháu
mọi miền Nam, Bắc. Trong bản Di chúc lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề “Đầu tiên là công việc đối với con
người”[4] và
căn dặn Đảng ta những vấn đề chiến lược liên quan mật thiết đến con người. Khi
khép lại trang cuối của Di chúc, Người viết: “Cuối cùng, tôi để lại tình thân
yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và
nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các
cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”[5]. Tự
những lời dẫn trên đã toát lên một tình cảm nhân ái bao la vô bờ bến của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đối với con người, đối với các thế hệ và hơn nữa, không phải chỉ đối
với chúng ta mà còn đối với tất cả bè bạn năm châu, bốn biển. Bởi vậy, tìm về
Hồ Chí Minh là tìm về “lòng tốt của con người…, tình bạn, lòng nhân ái, một con
người không nghĩ đến mình, giản dị, khiêm tốn, không tự giam mình trong tháp
ngà, một con người của quần chúng”[6]. Và
cũng bởi thế, giá trị trường tồn của tư tưởng nhân văn ấy tiếp tục soi dọi sáng
mãi về sau, đúng như một nhà nghiên cứu chính trị và xã hội nước ngoài khẳng định:
phải “nhìn thế giới như một quá trình ở đó sự thay đổi là cội nguồn của sự giàu
có, tiến bộ và nhằm tìm kiếm ước muốn nhân đạo trong lĩnh vực đạo đức. Vì thế mà
những con người như Hồ Chí Minh ngày càng trở nên vĩ đại, vì họ là những người đã
cho chúng ta lý do để sống và khả năng để thực hiện những giấc mơ của mình”[7].
Gần nửa thế kỷ đã qua đi sau khi trái tim
lớn của Người ngừng đập, đất nước ta có nhiều đổi thay, nhân loại có nhiều biến
cố và xáo động mãnh liệt. Song, hệ thống tư tưởng khoa học, cách mạng và nhân văn
Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định giá trị vĩnh hằng của nó và cho chúng ta niềm
tin vững chắc vào con người, vào tương lai, đúng như lời điếu văn tiễn biệt
Người của Đảng ta khẳng định: “Hồ Chủ Tịch đã qua đời! Nhưng Người luôn luôn
dẫn dắt chúng ta. Chúng ta vẫn cảm thấy có Người luôn luôn ở bên cạnh. Bởi vì
chúng ta vẫn đi theo con đường của Người, tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của Người.
Bởi vì Người vẫn sống mãi với non sông đất nước, tên tuổi và hình ảnh của Người
ngày càng khắc sâu trong tim, khối óc của mỗi chúng ta”[8].
Thế giới trong thập niên đầu của thế kỷ
XXI đang ẩn chứa những mâu thuẫn sâu sắc. Người ta đang nói nhiều, bàn nhiều
đến của cải, quyền lực và sự phồn thịnh giả tạo của một số cường quốc lớn trên
thế giới, nhưng có một sự thật hiển nhiên là, nhân loại hiện nay vẫn đang phải
tiếp tục đối mặt với đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh và nhiều nguy cơ xã hội
khác, kể cả sự suy thoái về đời sống tinh thần ở ngay các cường quốc phát triển
nhất. Trong một thế giới hai màu “sáng tối” hiện nay, những ngịch lý, bất công
và cả sự chà đạp lên nhân phẩm con người vẫn tồn tại hiện hữu. Và cũng chính
trong hoàn cảnh đó, nhân loại đang hướng về các giá trị tiến bộ trong đó có tư
tưởng nhân văn cao cả Hồ Chí Minh. Vì rằng, “Ở giữa cơn khủng hoảng này, nhân
loại đã sản sinh ra những danh nhân lỗi lạc làm nên thời đại như Lênin, Hồ Chí
Minh và Găngđi là những người đã để lại những dấu ấn không thể sai lầm của mình
để được tiếp tục theo đuổi trong các đảo lộn nhiều biến động”[9].
Theo tư tưởng nhân văn cao cả của Người,
dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, kiên
định lý tưởng cách mạng thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất
nước. Đã và đang quyết tâm thực hiện di nguyện lớn lao của Người là xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, làm cho dân cường, nước thịnh; con người được
hưởng tự do, ấm no, hạnh phúc. Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 20 năm qua đã thu
được những thành tựu “to lớn và có ý nghĩa lịch sử”[10].
Dưới ánh sáng của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, để đẩy mạnh toàn diện sự
nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, cần phải tập trung giải quyết tốt các vấn đề
liên quan đến con người - mục tiêu cao nhất và nguồn lực đặc biệt của sự phát
triển. Bởi vậy, sự nghiệp đổi mới đất nước phải vì lợi ích của nhân dân và phải
tiếp tục “dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”[11]
để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng đặt ra. Coi trọng
phát huy vai trò của con người, của các thế hệ để “chống lại những gì đã cũ kỹ,
hư hỏng”[12], thực
hiện thắng lợi mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”[13],
vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội - con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam
mà Người đã lựa chọn.
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
chúng ta cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa, đó là những con người
nhân văn theo tư tưởng Hồ Chí Minh có sự phát triển toàn diện cả đức và tài; cả
trí tuệ khoa học và tình cảm cách mạng; có lòng nhân ái và khoan dung. Bởi vậy,
cần tiếp tục “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam...trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế”[14].
Coi trọng đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phấn đấu “xây dựng nền giáo dục
hiện đại, của dân, do dân và vì dân, bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi
người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”[15] cũng
chính là hiện thực hoá các giá trị nhân văn Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới
và làm cho giá trị trường tồn của nó tiếp tục soi sáng cho con đường cách mạng
Việt Nam vững bước tiến lên./.
Trọng An
[1] T
tëng Hå ChÝ Minh vÒ ®¹o ®øc, NxbGD, 2006, tr.105.
[2] T
tëng Hå ChÝ Minh vÒ ®¹o ®øc, NxbGD, 2006,
tr. 501.
[4] Hå
ChÝ Minh, Toµn tËp, T12, NxbCTQG, H, 2002, tr.503.
[5] Hå
ChÝ Minh, Toµn tËp, T12, NxbCTQG, H, 2002, tr. 500.
[6] Hå
ChÝ Minh sèng m·i trong tr¸i tim nh©n lo¹i, NxbL§- Q§ND, H, 1993, tr.103, 111.
[7] T
tëng Hå ChÝ Minh vÒ ®¹o ®øc, NxbGD, 2006, tr.178.
[8] . Hå
ChÝ Minh, Toµn tËp, T12, NxbCTQG, H, 2002, tr.519-520.
[9] T
tëng Hå ChÝ Minh vÒ ®¹o ®øc, NxbGD, 2006, tr.179.
[10]
V¨n kiÖn §¹i héi ®¹i biÓu toµn quèc lÇn thø X, NxbCTQG, H, 2006, tr.19.
[11]
Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, T12, NxbCTQG, H, 2002, tr. 505.
[12]
Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, T12, NxbCTQG, H, 2002, tr. 505.
[13]
V¨n kiÖn §¹i héi ®¹i biÓu toµn quèc lÇn thø X, NxbCTQG, H, 2006, tr.10.
[14]
V¨n kiÖn §¹i héi ®¹i biÓu toµn quèc lÇn thø X, NxbCTQG, H, 2006, tr.106.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét