Đặc điểm cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng cầm quyền chỉ mối quan hệ giữa đảng với nhà nước mà cốt lõi là quá trình đưa đảng viên nắm giữ các vị trí then chốt của bộ máy nhà nước để lãnh đạo, chỉ đạo mọi hoạt động của nhà nước. Để cầm quyền lâu dài, các đảng phải có năng lực và kinh nghiệm cầm quyền (thể hiện ở nội dung và phương thức cầm quyền).
Với nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền là Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, nắm giữ và chi phối Nhà nước để Nhà nước điều hành và quản lý đất nước theo đường lối, chủ trương của Đảng, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng cầm quyền trong điều kiện một đảng duy nhất khác với đảng cầm quyền trong điều kiện đa đảng. Vì vậy, Đảng ta xác định “nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”(1) và “Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương”(2).
Sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam ngoài những điểm chung như các đảng cầm quyền trên thế giới (Đảng chi phối, tác động vào Nhà nước trong việc thể chế hóa cương lĩnh, đường lối của Đảng thành pháp luật, chính sách; bố trí, giới thiệu đảng viên ưu tú ứng cử các chức vụ chủ chốt của các cơ quan nhà nước...), còn có những đặc điểm riêng: một là, Đảng cầm quyền trong thể chế chính trị nhất nguyên; hai là, Đảng giành được địa vị cầm quyền không qua tranh cử như trong thể chế đa đảng mà xác lập quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội như một tất yếu tự nhiên sau khi lãnh đạo nhân dân ta giành được chính quyền, từ chế độ thuộc địa, phong kiến, khôi phục độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia; ba là, Đảng lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả lực lượng vũ trang; bốn là, Đảng có cơ sở chính trị là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Là đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam có những trọng trách to lớn đối với sự phát triển của đất nước và vận mệnh của dân tộc, vì vậy “cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”(3); Đảng phải “xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng”(4).
Như vậy, sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là việc Đảng nắm chính quyền nhà nước mà còn là sử dụng, phát huy địa vị, vị thế được Hiến pháp quy định và đội ngũ đảng viên trong bộ máy nhà nước để thể hiện và xứng đáng với vị thế, trách nhiệm của một đảng cầm quyền chân chính. Sự cầm quyền của Đảng vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của Đảng đối với Nhà nước và xã hội do sự quy định tất yếu của lịch sử.
Với vai trò cầm quyền, trách nhiệm lớn nhất của Đảng là bảo vệ độc lập dân tộc và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Đảng phải chịu trách nhiệm trước dân tộc cả về mặt pháp lý và thực tiễn. Trách nhiệm đó, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng phải lo từ việc giành độc lập cho dân tộc, đến “tương cà mắm muối” cho dân. Trong đời sống chính trị thế giới nói chung, không phải đảng chính trị nào cũng có được sự khác biệt về chất ấy.
Với tư cách là đảng cầm quyền, Đảng phải thể hiện tính chính đáng của quyền lực (được đông đảo nhân dân ủng hộ), tính khoa học trong cơ cấu tổ chức, tính hợp lý khi sử dụng, phân phối quyền lực nhà nước, trong đó vấn đề đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ; hoạch định, thực hiện chính sách nhà nước; sử dụng các nguồn lực công là nhiệm vụ trọng tâm.
Nội dung cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nội dung cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là những công việc, hoạt động mà Đảng cần làm nhằm sử dụng, phát huy vị thế cầm quyền được Hiến pháp quy định; là quyết định tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng, phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng cầm quyền chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, trong đó quan trọng nhất là thông qua đội ngũ đảng viên đang nắm giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước; nắm lực lượng vũ trang và nắm ngân sách nhà nước. Nội dung cầm quyền của Đảng bao quát và chi phối toàn diện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trên tất cả các lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Nói cách khác, nội dung cầm quyền của Đảng thể hiện ở việc đề ra các đường lối, chủ trương, chính sách lớn và tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước; kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức đảng và cán bộ, công chức, đảng viên trong các cơ quan nhà nước.
Như vậy, có thể xác định những nội dung cầm quyền chủ yếu của Đảng là:
Thứ nhất, Đảng xây dựng chủ trương, đường lối, lãnh đạo Nhà nước và định hướng chính sách phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong các văn bản quan trọng của Đảng, như Cương lĩnh, nghị quyết Đại hội Đảng, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư... Đảng thể hiện quan điểm, chủ trương trong định hướng giải quyết các vấn đề trọng yếu của đất nước, từ xây dựng, đổi mới Nhà nước đến phát triển kinh tế - xã hội, đối nội, đối ngoại. Việc xây dựng nghị quyết của Đảng là nội dung chủ yếu thể hiện năng lực, trí tuệ của Đảng. Trên cơ sở đánh giá, khảo sát ý kiến của chuyên gia, nhân dân, Đảng tập trung nghiên cứu, ban hành các nghị quyết nhằm giải quyết những vấn đề đang đặt ra đối với đất nước, trọng tâm hiện nay là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có tâm, có tầm, có trí để lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là đường lối, kế hoạch phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là cơ sở để các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và toàn xã hội triển khai thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, Đảng xây dựng mô hình nhà nước, bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Đảng chủ trương và quyết định việc xây dựng bộ máy nhà nước, tổ chức quyền lực nhà nước, nhất là phân công, phân cấp quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương với địa phương. Quan điểm của Đảng ta là tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc thống nhất, phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đảng xây dựng và ban hành nghị quyết về sắp xếp, tổ chức bộ máy nhà nước, chủ trương sáp nhập hoặc chia tách các đơn vị hành chính trên cả nước, các cơ quan bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương, phù hợp với thực tiễn (cơ cấu tổ chức, bộ máy, số lượng bộ, ngành, biên chế, nguyên tắc hoạt động...), chỉ đạo đẩy mạnh cải cách hành chính. Đảng sử dụng các biện pháp tổ chức để xây dựng và lãnh đạo bộ máy nhà nước hoạt động theo đúng mục tiêu của Đảng. Trên cơ sở Hiến pháp, Đảng xác định các nguyên tắc cơ bản định hướng xây dựng cơ cấu bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương, để các cơ quan nhà nước đủ năng lực thực hiện được quyền lực mà nhân dân ủy quyền. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước thiết lập bộ máy vững mạnh, trong sạch để thực sự có quyền lực và thực thi được quyền lực. Đảng xác định rõ ràng mối quan hệ làm việc giữa Ban Chấp hành Trung ương với Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp trên cơ sở xây dựng quy chế hoạt động giữa các bên; vừa phải đủ năng lực chỉ đạo định hướng chính sách, thể chế hóa, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối một cách đầy đủ, kịp thời, đúng đắn vừa phải cải tiến, khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay công việc Nhà nước. Đảng nắm công tác cán bộ từ Trung ương đến cơ sở, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Đảng giới thiệu đảng viên ưu tú để bầu vào các cơ quan bộ máy nhà nước, đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm soát đảng viên thực hiện đúng cương lĩnh, Điều lệ, đường lối của Đảng.
Thứ ba, Đảng định hướng, xây dựng chiến lược phát triển các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử.
Trong lĩnh vực chính trị, Đảng xác định Cương lĩnh cầm quyền, tức là đường lối chung để lãnh đạo đất nước và đường lối cho từng lĩnh vực cụ thể; xác lập thể chế chính trị và cơ chế vận hành, những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị sao cho có hiệu quả, phù hợp với quy luật khách quan, trong đó việc xây dựng và tổ chức thực hiện Hiến pháp và các đạo luật là cực kỳ quan trọng để tạo cơ sở pháp lý cho Đảng cầm quyền; xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Trong lĩnh vực kinh tế, Đảng quyết định các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế, chiến lược kinh tế - xã hội trung hạn và dài hạn, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và 5 năm, các chính sách phát triển kinh tế quan trọng, những giải pháp đột phá..., đồng thời lãnh đạo việc tổ chức thực hiện. Đó là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng là Đảng lãnh đạo bảo đảm cho phát huy đầy đủ vai trò, tính tích cực của thị trường cũng như nhà nước trong quản lý kinh tế, hạn chế lợi ích nhóm, bảo đảm nguồn lực phân bổ hợp lý cho mục tiêu phát triển theo ý chí của Đảng.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, Đảng đề ra quan điểm, đường lối, chính sách và lãnh đạo việc thực hiện xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội; xác định con người là trung tâm của chiến lược phát triển đồng thời là chủ thể phát triển; chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo; chú trọng nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học và công nghệ để giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại; phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và tinh thần; hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội...
Trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, Đảng quyết định đường lối xây dựng quốc phòng, an ninh, coi bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc, trong đó quân đội và công an là lực lượng nòng cốt; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Mọi hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đều đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước. Ban Chấp hành Trung ương, mà thường xuyên và trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc và tham gia xây dựng đất nước; xác định đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng. Đối với lực lượng vũ trang địa phương, tỉnh ủy, thành ủy phối hợp với Bộ Quốc phòng và Bộ Công an lãnh đạo bộ chỉ huy quân sự và công an tỉnh thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; quyết định nhân sự lãnh đạo đảng đối với bộ đội và công an địa phương.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Đảng đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc phù hợp luật pháp quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Thông qua các tổ chức đảng, Nhà nước, đoàn thể, các tổ chức xã hội, Đảng chỉ đạo tăng cường và mở rộng các quan hệ đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại.
Phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là tổng hợp những phương pháp, cách thức, biện pháp để nắm giữ, tác động vào Nhà nước, thể chế hóa quyền lực chính trị của Đảng thành quyền lực nhà nước; chuyển hóa ý thức hệ giai cấp công nhân thành chế định luật pháp và mô hình tổ chức quyền lực nhà nước; cơ chế sử dụng hiệu quả các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng và thực hiện nội dung cầm quyền của Đảng.
Phương thức cầm quyền chủ yếu dựa vào pháp luật, Đảng chỉ đạo Nhà nước thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nội dung cầm quyền và phương thức cầm quyền có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó nội dung cầm quyền quy định phương thức cầm quyền. Qua thực hiện phương thức cầm quyền, Đảng hoàn thiện các nội dung cầm quyền. Phương thức cầm quyền của Đảng được thể hiện thông qua các điểm sau:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng thành chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch để toàn xã hội thực hiện.
Sau khi nghị quyết của Đảng được ban hành, các cơ quan nhà nước phải xây dựng kế hoạch, chương trình hành động để thực hiện nghị quyết. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng qua đó nhanh chóng đi vào thực tiễn, trở thành yếu tố thúc đẩy sự phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng lãnh đạo định hướng Quốc hội xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ phát triển. Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước quyết định những vấn đề quan trọng về chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước; những vấn đề trọng đại của đất nước: các vấn đề đối nội, đối ngoại, chương trình, kế hoạch lớn, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội... Các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành các chính sách, chương trình, kế hoạch. Việc thể chế hóa đường lối, nghị quyết của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước phải đáp ứng yêu cầu thiết thực, hiệu quả và được thực hiện nghiêm túc. Có như vậy, vai trò cầm quyền của Đảng mới được củng cố, hiệu quả cầm quyền tăng lên.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo Nhà nước quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Đảng lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, như vấn đề nhân sự cấp cao, tổ chức bộ máy nhà nước, đối nội, đối ngoại, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm, 5 năm, 10 năm..., xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Sự cầm quyền của Đảng không làm thấp vai trò của các cơ quan nhà nước, như Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; việc xét xử của Tòa án Nhân dân tối cao phải bảo đảm tính khách quan, tuân theo pháp luật. Ngược lại, các cơ quan nhà nước mạnh tức là các tổ chức đảng mạnh, thực hiện tốt chức năng lãnh đạo đối với Nhà nước. Đảng giáo dục, thuyết phục, huy động các tầng lớp nhân dân tham gia công việc nhà nước, đồng thời kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước.
Đảng xây dựng cơ chế sử dụng các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để hiện thực hóa ý chí của Đảng, tập trung vào hoạch định chính sách công và phân bổ nguồn lực công, không để các “nhóm lợi ích” thao túng, trục lợi.
Thứ ba, Đảng quyết định công tác cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước.
Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú ứng cử vào các chức danh chủ chốt của bộ máy nhà nước sao cho mọi tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực hiện đúng quan điểm, chủ trương của Đảng.
Đảng có trách nhiệm làm tốt công tác cán bộ, từ đào tạo, bồi dưỡng đến đánh giá, bố trí, sắp xếp cán bộ; xây dựng nguồn quy hoạch, thử thách cán bộ thông qua luân chuyển cán bộ, cử cán bộ tham gia công tác thực tiễn, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn để giới thiệu cho bộ máy nhà nước.
Đảng có trách nhiệm làm tốt công tác cán bộ, từ đào tạo, bồi dưỡng đến đánh giá, bố trí, sắp xếp cán bộ; xây dựng nguồn quy hoạch, thử thách cán bộ thông qua luân chuyển cán bộ, cử cán bộ tham gia công tác thực tiễn, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn để giới thiệu cho bộ máy nhà nước.
Thông qua hệ thống tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước, Đảng lựa chọn, giới thiệu cán bộ, đảng viên của Đảng để Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp bầu vào các cơ quan nhà nước, gắn với xác định cơ cấu nhân sự hợp lý trong từng cơ quan nhà nước.
Thứ tư, Đảng kiểm tra, giám sát đảng viên làm việc trong bộ máy nhà nước chấp hành cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ trương của Đảng thông qua tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước và ủy ban kiểm tra các cấp.
Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo đồng thời cũng là phương thức cầm quyền của Đảng. Các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, các chỉ thị, nghị quyết, quy chế, quy định... của Đảng. Đảng giám sát hoạt động của đội ngũ đảng viên làm việc trong bộ máy nhà nước, giám sát việc thực thi chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước; giám sát, kiểm soát việc thực thi Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan, công chức nhà nước, nhằm bảo đảm Nhà nước phải phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, giữ vững bản chất giai cấp công nhân. Các đảng viên nắm giữ những chức vụ trong bộ máy nhà nước có trách nhiệm báo cáo công tác trước chi bộ, cấp ủy đảng, nơi sinh hoạt đảng về chức trách, nhiệm vụ được giao và mức độ hoàn thành công việc của mình. Do đó, Đảng xây dựng cơ chế hiệu quả để giám sát hoạt động của đội ngũ đảng viên làm việc trong bộ máy nhà nước. Đồng thời, Đảng quản lý nghiêm minh đảng viên, thực hiện cầm quyền bằng chế độ kỷ luật đảng.
Một số giải pháp nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong thời kỳ mới
Thứ nhất, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng theo hướng quy chế hóa; quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ, đảng viên đang làm việc trong bộ máy nhà nước.
Tiếp tục cụ thể hóa và hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thành các chương trình công tác lớn, chương trình hành động, làm căn cứ thực hiện sự cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước. Khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, đội ngũ đảng viên nắm giữ hầu hết các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước, có quyền lực rất lớn và nguy cơ tha hóa quyền lực, quan liêu, tham nhũng, “lợi ích nhóm” rất cao. Vì vậy, Đảng phải thường xuyên xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, quản lý chặt chẽ đảng viên ngay từ chi bộ, phát hiện và xử lý kịp thời những hiện tượng vi phạm pháp luật và Điều lệ Đảng; từ đó xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có đủ trí tuệ, năng lực cầm quyền đối với Nhà nước và xã hội trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Cán bộ, đảng viên phải nêu gương, đi đầu về rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong.
Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ cách ra nghị quyết, nghiên cứu sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng các cấp.
Tăng cường công tác nghiên cứu, đánh giá, bàn bạc, chỉ đạo hoạt động của cơ quan nhà nước, chú ý công tác tổng kết, đánh giá việc thực hiện nghị quyết. Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, nhất là nghiên cứu, hoàn thiện mô hình đảng ủy khối, ban cán sự đảng, đảng đoàn...; làm rõ trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực bộ máy làm công tác tham mưu của Đảng.
Cán bộ chính trị trong bộ máy đảng ngoài kiến thức cơ bản phải có trình độ lý luận chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo, có năng lực nghiên cứu và phân tích ở tầm vĩ mô. Đó là những người hoạt động chính trị, chuyên gia giỏi về hoạch định chính sách, có năng lực, trình độ cao hơn cán bộ cùng cấp của các cơ quan nhà nước.
Đảng còn cần nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế, quản lý kinh tế, giải phóng mọi nguồn lực để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn cầm quyền vững chắc, Đảng phải nắm kinh tế, phải có người am hiểu và đủ trình độ chỉ đạo hoạch định chính sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết về phát triển kinh tế. Chủ động đào tạo, bồi dưỡng về kinh tế và quản lý kinh tế cho đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
Thứ tư, đổi mới tổ chức và phương thức kiểm tra, giám sát quyền lực.
Các tổ chức đảng phải phối hợp kiểm tra, giám sát với các cơ quan thanh tra nhà nước theo hình thức thường xuyên và đột xuất, không phải đợi khi có khuyết điểm, có tố cáo mới kiểm tra. Nghiên cứu hoàn thiện mô hình và cơ chế vận hành để tăng cường vai trò, trách nhiệm ủy ban kiểm tra các cấp. Cần nâng cao chất lượng cán bộ ủy ban kiểm tra các cấp để xứng đáng là đội ngũ tiên phong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Quy định chặt chẽ chế độ chịu trách nhiệm của những người nắm giữ quyền lực.
Thứ năm, đẩy mạnh và mở rộng dân chủ trong Đảng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Xử lý tốt mối quan hệ đảng viên với tổ chức đảng, nâng cao trình độ khoa học hóa, dân chủ hóa trong các quyết sách của Đảng; xây dựng và kiện toàn cơ chế để quần chúng tham gia đời sống chính trị đất nước. Quy định rõ những việc và mức độ cấp ủy chỉ đạo chính quyền để không bao biện làm thay nhưng cũng không buông lỏng vai trò lãnh đạo. Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là cơ sở xã hội vững chắc cho sự cầm quyền của Đảng, quyết định sự hưng vong của Đảng. Vì vậy, muốn cầm quyền bền vững, Đảng phải dựa vào nhân dân để nắm bắt vấn đề xây dựng đường lối, chính sách, phục vụ nhu cầu và lợi ích thiết thực của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động nhân dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước./.
------------------------------------------------------------
(1), (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 217, 47
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 258
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 205
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 258
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 205
Nội dung bài viết rất hữu ích, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóaBài viết rất hay
Trả lờiXóa