Phạm Trung
Tháng 7 hằng năm là dịp để mỗi người dân Việt Nam tri ân những anh hùng liệt sĩ, những thương binh đã cống hiến máu xương của mình cho độc lập tự do của Tổ quốc, cho chủ nghĩa xã hội. Hành động tốt đẹp này được hình thành và nuôi dưỡng bởi truyền thống “uống nước nhớ nguồn” - một trong những nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” được hình thành và phát triển từ
lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Trong
lịch sử, dân tộc Việt Nam liên tục phải chống chọi với thiên tai,
địch họa để tồn tại và phát triển. Để giữ cho xã tắc bình yên, người dân được sống trong ấm no, hạnh phúc,
rất nhiều tấm gương người Việt Nam đã dũng cảm chiến
đấu, hy sinh. Biết ơn và ghi nhớ công lao to lớn
của những người đã dũng cảm chiến đấu, hy sinh vì nghĩa lớn, các
triều đại phong kiến Việt Nam đề ra nhiều chính sách đãi ngộ, động viên
toàn dân có những
hoạt động thiết thực nhằm tôn vinh, tri ân đối với những người có công và gia
đình, người thân của họ.
Sử
cũ có ghi về chế độ tặng và tuất. Thần tông, năm Thịnh Đức thứ ba
(1655), quy định về chính sách cho quan và binh chết trận: Các chánh đội
trưởng, đội trưởng ở các dinh cơ đội thuyền có dự cai quản cùng
những binh lính được cử đi đánh giặc mà hết sức cố đánh, hoặc chết
trận thì cai đội, cai thuyền được tặng chức tả hiệu điểm và mỗi
viên được cấp 20 mẫu quan điền; chánh đội trưởng và đội trưởng được
gia tặng chức hữu hiệu điểm và mỗi viên được cấp 15 mẫu quan điền;
binh lính thì được cấp 5 mẫu quan điền và cho con được miễn trừ việc
quan, nếu chưa có con thì anh em hay cháu gọi bằng chú, bác ruột, một
người được miễn việc quan[1].
Đời vua Hiển Tông, năm Cảnh hưng thứ 5 (1774) quy định: Quan và binh mà
chết trận đều được tặng chức một bậc; một người con trai của các
thuộc viên tùy hiệu chết trận được phong chức bát phẩm, có tài cán
thì được bổ dụng, không có tài cán thì ở nhà; quân nhân các sắc mà
chết trận thì cho một người con trai được chức cửu phẩm; người chết
trận không có con trai thì thuộc viên tùy hiệu cấp cho 5 mẫu quan
điền, quân nhân các sắc cấp cho 3 mẫu, giao cho cha mẹ hay vợ con, chỉ
được ăn một đời; các quân nhân chết tại mặt trận thì tạm cấp cho
mỗi người 3 quan, giao cho cơ đội và làm mộ chí để dễ nhận; tiền,
gạo, khẩu phần của quân nhân đã chết vẫn được chia bình thường,
cho vợ con hay thân thuộc được truy lĩnh, đợi khi tuyển suất điền khác
thì thôi[2].
Sắc chỉ Vua ban quy định rất cụ thể, được thực hiện nghiêm ngặt, bình đẳng,
theo sự cống hiến của từng người, vừa thu hút được sự quan tâm, thể hiện sự tôn vinh của
toàn xã hội đối
với các đối tượng chính sách, vừa động viên được tinh thần chiến dấu
dũng cảm của người lính trên chiến trường và gia đình, hậu phương của họ.
Gắn với phong tục tập quán, tín ngưỡng của từng địa
phương, người dân Việt Nam đã lập ra nhiều đền thờ, miếu
thờ, phong thần từ
Thành hoàng
làng đến đức thánh, tổ chức nhiều lễ hội để tưởng nhớ công ơn của những anh hùng vì
dân, vì nước. Đền Hùng và Lễ hội Giỗ tổ
Hùng Vương thờ cúng
và tưởng nhớ công ơn của các đời Vua Hùng. Đền Gióng và Lễ hội
Gióng Sóc Sơn thờ
cúng và tưởng
nhớ công ơn của Thánh Gióng đã có công đánh đuổi giặc Ân để cứu nước. Đền thờ
và Lễ hội Đền Kiếp Bạc thờ phụng và tưởng nhớ công ơn của Đức thánh
Trần - Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Lễ hội Đống Đa tưởng nhớ người
Anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ, v.v.. Qua nhiều thế hệ, những chính sách và việc làm ý nghĩa
này đã trở thành truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, là
nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Các thế hệ người Việt Nam cần có trách nhiệm hiểu rõ, tiếp tục
giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp ấy vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” được hình thành và phát triển từ lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam.
Trả lờiXóa