Ngọc Bảo
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam không chỉ là quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời mà còn là một dân tộc đa tôn giáo, tín ngưỡng. Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc có những sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo riêng gắn liền với đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và tâm linh của mình. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định chủ trương, chính sách nhất quán là tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các dân tộc Việt Nam.
Thực tiễn từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới đến nay, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thường xuyên sôi động và đang có chiều hướng gia tăng, làm cho đồng bào tin tưởng, phấn khởi vào chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, tích cực thực hiện phương châm sống “đẹp đời, tốt đạo”.Tuy nhiên, trước những thành tựu của công cuộc đổi mới ở nước ta theo định
hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, các
thế lực thù địch càng hằn học, ra sức lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”,
“dân tộc”, “tôn giáo” để chống phá cách mạng nước ta một cách quyết liệt, với
nhiều hình thức và thủ đoạn xảo quyệt, hiểm độc. Trên lĩnh vực tôn giáo, các
thế lực thù địch đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc, tung thông tin sai sự thật,
rằng “Việt Nam có hành động vi phạm tự do tôn giáo nghiêm trọng”; “Ở Việt Nam
không có tự do tín ngưỡng, tôn giáo!”. Chúng trắng trợn cáo buộc, lên án “các
địa phương vẫn tiếp tục đàn áp nhiều người Tin lành thiểu số”, “Việt Nam hiện
có nhiều người bị giam giữ vì tôn giáo”, “bị cưỡng ép bỏ đạo”… Đặc biệt, từ
nhiều năm nay Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ cũng như Tổ chức Ân xá Quốc
tế đã liên tục đưa ra những luận điệu vu cáo “Việt Nam đàn áp, tấn công giáo
dân”. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng tự cho mình đặc quyền phán xét về tình hình tự
do tôn giáo của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới thông qua cái gọi
là “Báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế”, được Quốc hội (Hạ viện Mỹ) công bố vào tháng 9 hằng năm. Nội dung “Báo cáo” xuyên tạc
thô bạo chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước Việt Nam và tình
hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, cho rằng ở Việt Nam “Nếu theo một tôn giáo
không được chính phủ công nhận, họ còn bị đặt trước nguy cơ bị kỳ thị, bị ngược
đãi bằng bạo lực và có khi còn bị bắt bớ”. Vì vậy, họ xếp Việt Nam vào danh
sách “các nước đặc biệt quan tâm về tôn giáo”, đồng thời khuyến nghị Tổng thống
Mỹ ban hành các sắc lệnh trừng phạt Việt Nam về kinh tế, chính trị, ngoại
giao…
Vậy nếu cứ theo những luận điệu tuyên truyền, cáo buộc của các thế lực thù
địch thì phải chăng mọi sinh hoạt và hoạt động của những người theo các tín
ngưỡng, tôn giáo đều bị Nhà nước Việt Nam cấm đoán, cản trở, đàn áp!? Phải
chăng ở Việt Nam không có tự do tín ngưỡng, tôn giáo?.
Trước hết chúng ta thấy rõ, thực tiễn hàng chục năm qua, các thế lực thù
địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà toàn dân ta đã lựa chọn. Chúng
núp dưới chiêu bài “tự do tôn giáo” để cố tình phớt lờ những thành tựu to lớn
của Việt Nam về công tác tôn giáo trong hơn 26 năm đất nước tiến hành công cuộc
đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Song chúng lại tìm mọi cách chia rẽ
các tổ chức tôn giáo ở nước ta, gây mâu thuẫn giữa người có tín ngưỡng, tôn
giáo với người không có tín ngưỡng, tôn giáo, giữa đồng bào tôn giáo với Đảng
và Nhà nước; tài trợ cho hoạt động truyền đạo trái phép, nhằm mục đích gây rối
loạn an ninh, trật tự xã hội, tạo ra các “điểm nóng” chính trị - xã hội để tạo
cớ cho nước ngoài can thiệp phá hoại cách mạng Việt Nam. Từ lâu, dư luận đều
biết rõ, không phải ngẫu nhiên Việt Nam cùng một số nước khác như Nga, Trung
Quốc, Cuba, Triều tiên… bị các thế lực thù địch chống phá quyết liệt, bởi các
quốc gia này không tuân theo “giá trị Mỹ”, “giá trị phương Tây” về dân chủ,
nhân quyền, tự do tôn giáo. Chính vì những toan tính chính trị, cho nên khi đưa
ra những luận điệu vu cáo Việt Nam không có “tự do tín ngưỡng, tôn giáo”, “Nhà
nước Việt Nam đàn áp giáo dân!?”…, các thế lực thù địch đã cố tình phớt lờ
những thực tế sống động về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam trong những thập
kỷ qua.
Vậy sự thật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam như thế nào?
Chúng ta đều biết, từ ngày nước Việt Nam mới ra đời (9/1945) đến nay, Đảng
và Nhà nước ta luôn xác định và nhất quán thực hiện chủ trương, chính sách công
tác tôn giáo, coi đây là vấn đề chiến lược của cách mạng và được cụ thể hóa
bằng pháp luật. Ngày 14/6/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 234/SL
xác định “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân.
Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can
thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật
của Nhà nước như mọi tổ chức khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng
bắt buộc phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Các Hiến pháp
của nước Việt Nam: Điều 10, Hiến pháp 1946; Điều 26, Hiến pháp 1959; Điều 68,
Hiến pháp 1980; Điều 70, Hiến pháp 1992; Điều 25, Dự thảo sửa đổi Điều 70, Hiến
pháp 1992), đều ghi nhận mọi công dân nước Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Quốc hội khóa 11 Nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (số
21/2004/PL-UBTVQH 11), quy định về các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Ngày
01/3/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP để hướng dẫn thi hành
một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Thủ tướng Chính phủ ban hành
Chỉ thị số 1940/CT-TTg, ngày 31/12/2008 “Về
nhà, đất liên quan đến tôn giáo” và nhiều văn bản hướng dẫn của Nhà nước và các
bộ, ban, ngành liên quan, tiếp tục khẳng định rõ “Công dân có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào” và quy định “Tổ chức
tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo được mời tổ chức, người nước
ngoài vào Việt Nam để tiến hành các hoạt động hợp tác quốc tế…”.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khóa VI)
đã ra Nghị quyết số 24/NQ-TW về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình
mới” (16/10/1990), ra Chỉ thị 37 “về công tác tôn giáo trong tình hình mới”
(02/7/1998). Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
đã khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta”[1]. Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy
định của pháp luật”[2]; đồng thời xác định chủ trương: “Phát huy những giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức
sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”[3]. Như vậy, quan điểm của Đảng ta không chỉ tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà còn đánh giá cao vai trò, vị trí của các
tôn giáo đối với dân tộc và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều đó khẳng
định chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta là nhất quán, đã và
đang được thực hiện trong thực tế trên đất nước Việt Nam.
Bức tranh chung về tình hình Việt Nam từ thời đổi mới năm 1986 đến nay, các
lĩnh vực đời sống xã hội đều đạt được thành tựu to lớn, trong đó có lĩnh vực
công tác tôn giáo, góp phần quan trọng làm thay đổi căn bản đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Tính đến năm 2011, cả nước có 12 tôn giáo với 37
tổ chức tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật, với trên 30 triệu tín đồ, hơn 100.000 chức sắc và nhà tu hành đang
hoạt động tại hơn 24.000 cơ sở thờ tự trên cả nước. Việc mở trường và đào tạo chức sắc tôn giáo luôn được nhà nước tạo điều
kiện thuận lợi. Nếu như năm 1993, Phật giáo có 22 trường cao cấp và trung cấp
Phật học, đến nay đã có 4 học viện Phật giáo và nhiều trường cao đẳng, trung
cấp Phật học. Giáo hội Công giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh và
1.712 chủng sinh dự bị. Nhà nước còn tạo điều kiện cho các tu sĩ đi học tập,
hội thảo nâng cao trình độ ở nước ngoài; từ 1992 đến nay có 235 tu sĩ đi đào
tạo ở nước ngoài, 2.062 lượt người tham gia hội thảo, trao đổi công việc ở nước
ngoài, trong đó có một số người bảo vệ thành công luận văn, luận án thạc sĩ,
tiến sĩ về tôn giáo ở nước ngoài.
Các cơ sở thờ tự của tôn giáo được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Theo thống
kê, đến nay cả nước có 14.321 ngôi chùa, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường;
Thiên chúa giáo có 6.003 nhà thờ, nhà nguyện; Tin lành có gần 500 nhà thờ, nhà
nguyện; Cao Đài có 1.284 thánh thất; Phật giáo Hòa Hảo có 522 chùa, hội quán;
Hồi giáo có 89 thánh đường; hàng vạn ngôi đình, đền, miếu, phủ... và những cơ
sở thờ tự khác của tín ngưỡng dân gian trải dài khắp cả nước. Riêng đạo Tin
lành ở các tỉnh Tây Nguyên, năm 1975 có hơn 50 ngàn người theo đạo Tin lành ở
200 buôn, đến nay tăng lên với gần 500 ngàn người ở 18.000 buôn. Hiện nay ở địa
bàn Tây Nguyên và Tây Bắc có gần 2.000
điểm nhóm đạo Tin lành được đăng ký sinh hoạt tôn giáo với chính quyền cơ
sở.
Trong những ngày lễ lớn của các tôn giáo như: Lễ Nô-en của đạo Công giáo,
Lễ Phật đản của Phật giáo… đều được chính quyền các cấp tạo điều kiện tổ chức
và lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến chúc mừng, động viên. Một số sự kiện hoạt động
tôn giáo lớn diễn ra và được tổ chức thành công trên đất nước Việt Nam như: Đại
lễ Phật đản Liên Hợp quốc (VESAK) tại Hà Nội (5/2008), với sự tham dự của hơn
4.000 tăng ni, phật tử, trong đó có khoảng 2.000 chức sắc, tín đồ đến từ 74 quốc
gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2010, tổ chức bế mạc năm thánh và Đại hội
hành hương La Vang lần thứ 29. Năm 2011, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức
Đại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập giáo hội; cũng trong năm 2011, các hệ phái Tin
lành tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày Tin lành đến Việt Nam… Các tôn giáo của Việt
Nam đã mở rộng quan hệ với nhiều tổ chức tôn giáo các nước trong khu vực Đông
Nam Á, Tây Âu, Mỹ, Ca-na-đa… đặc biệt quan hệ Việt Nam - Vatican được đẩy mạnh,
Tòa thánh Vatican đã bổ nhiệm Đặc phái viên không thường trú tại Việt Nam; tháng 12/2012, Hội đồng Giám mục Việt
Nam đăng cai tổ chức thành công Hội nghị Liên hội đồng Giám mục Á Châu tại Việt
Nam, với sự tham dự của nhiều Giám mục các nước ở Châu Á và đại diện Tòa thánh
Vatican. Quan hệ đối ngoại của các tôn giáo ngày càng mở rộng đã góp phần làm
cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn quan điểm, chính sách tự do tôn giáo của Đảng,
Nhà nước ta và sự thật tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay.
Ngoài những sự kiện tôn giáo lớn đã diễn ra, các tổ chức tôn giáo vẫn duy
trì tốt những hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, phong chức, phong phẩm và
bổ nhiệm chức sắc, chức việc nhà tu hành tôn giáo. Chỉ tính năm 2011 đã có 669
người được các tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm; 1.153 người được bổ
nhiệm; 734 người được thuyên chuyển địa bàn hoạt động. Cũng năm 2011, có 12.444
người tốt nghiệp hoặc hoàn thành các khóa bồi dưỡng, đào tạo từ các trường đào
tạo tôn giáo; các tôn giáo đều củng cố và xây dựng thêm cơ sở đào tạo, như Giáo
hội Công giáo thành lập thêm Đại chủng viện thứ 7 tại Xuân Lộc (Đồng Nai), đáp
ứng được cơ sở đào tạo chức sắc cho tôn giáo này; có 1.082 cơ sở thờ tự được
xây dựng, sửa chữa trong phạm vi cả nước.
Việc in ấn xuất bản kinh sách được Nhà nước Việt Nam rất quan tâm, bảo đảm
yêu cầu hoạt động của các tôn giáo. Đến nay, hầu hết các tổ chức tôn giáo đều
có báo, tạp chí, bản tin. Việc hoàn thành in 30.000 cuốn Kinh thánh bằng các
tiếng Ba-na, Ê-đê, Gia-rai đã tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo
của các tín đồ ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Riêng năm 2010, Nhà
xuất bản Tôn giáo đã cấp phép xuất bản 1.100 ấn phẩm liên quan đến tôn giáo,
trong đó 791 đầu sách với 2.881.600 bản in, đồng thời hỗ trợ in kinh, sách phật
giáo Nam tông Khơ-mer. Năm 2011 đã thẩm định và cấp phép xuất bản 1.004 đầu
sách và ấn phẩm về tôn giáo với hơn 2,5 triệu bản, trong đó có việc in Kinh
thánh Tin lành bằng chữ Mông La tinh và làm thủ tục xuất bản kinh Cô-ran song
ngữ Việt Nam - Ả rập; kinh sách của Phật giáo cũng sẽ được in bằng tiếng
Khơ-me…
Cùng với việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của các tín
đồ, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình, mục tiêu chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, tập trung giải
quyết vấn đề an sinh xã hội, phát triển văn hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho
sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào. Những kết quả thực tế đó chứng
minh thuyết phục ở Việt Nam, tín đồ và chức sắc các tôn giáo đã và đang yên tâm
hành đạo và tin tưởng ở chủ trương, chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo của
Đảng và Nhà nước Việt Nam. Họ gắn bó với quốc gia, dân tộc theo phương châm: “Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”,
thực hiện “sống phúc âm trong lòng dân tộc”, “nước vinh, đạo sáng”, với tấm
lòng “kính chúa, yêu nước”; vừa hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ của “con Lạc,
cháu Hồng” đối với Tổ quốc, vừa làm tròn bổn phận của một tín đồ đối với tôn
giáo; hăng hái thi đua lao động sản xuất, tham gia các hoạt động xã hội, góp
phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, giữ vững
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Những chuyển biến tích cực trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
trong công cuộc đổi mới đã được nhiều cá nhân và tổ chức quốc tế “mục sở thị”
và ca ngợi. Mới đây, Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb đánh giá: cho dù vẫn còn những
quan điểm cá nhân về một vài vụ việc cụ thể liên quan đến tự do tôn giáo tại
Việt Nam, nhưng không thể phủ nhận những tiến bộ về tự do tôn giáo tại Việt
Nam, nhất là từ năm 1991 đến nay. Nếu Việt Nam hạn chế tôn giáo, vi phạm tự do
tín ngưỡng, tôn giáo thì các tổ chức tôn giáo không thể xác lập được vị trí và
phát triển ổn định như hiện nay. Thực tiễn sinh động về bức tranh tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là bằng chứng để chúng ta kiên quyết đấu tranh, bác
bỏ những luận điệu xuyên tạc, cáo buộc, bịa đặt về tình hình tín ngưỡng, tôn
giáo và chính sách tự do tôn giáo của Việt Nam do các thế lực thù địch trong
nước và ngoài nước rêu rao trên các phương tiên thông tin đại chúng cũng như trên một số diễn đàn quốc tế. Đồng thời,
là cơ sở để đấu tranh ngăn chặn và làm vô hiệu hóa các “đạo lạ”, “tạp giáo”,
“tà giáo” có tính chất chính trị phản động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, phá hoại sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo
vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tôn giáo vẫn
luôn đồng hành cùng dân tộc và vì dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam thân yêu./.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. CTQG, H. 2003, tr.
48.
[2] Đảng Cộng sản VIệt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 81.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 245.
Việt Nam mà không có tự do tín ngưỡng thì không có nước nào có tự do tín ngưỡng
Trả lờiXóa