(ĐCSVN) - Đi lên xã hội xã hội chủ nghĩa là con đường duy nhất đúng, phù hợp với quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Quá trình này tất yếu đòi hỏi sự kiên định và phát huy thành tựu cũng như khát vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Cùng với đó, để góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc phát triển đất nước, chúng ta cũng cần kế thừa một cách khoa học những tinh hoa mà lịch sử loài người đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản. Tinh thần này được đồng chí Tổng bí thư của Đảng đề cập trong cuốn sách quan trọng của mình mới được công bố gần đây.
Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng |
1. Chủ nghĩa tư bản không phải là điểm dừng cuối cùng của lịch sử nhân loại
Trong cuốn sách của mình đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá một cách khách quan, khoa học về tiềm năng, giới hạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đang có nhiều thành tựu, tuy vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là điểm dừng cuối cùng của lịch sử nhân loại. Loài người tất yếu tiến tới chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng chí Tổng bí thư khẳng định: Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn trước. Từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách “tự do mới” trên quy mô toàn cầu, nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt, năm 2008-2009, chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công.
Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: Đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các “sắc tộc”. Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu. Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính sách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý[1].
Đồng thời với việc phê phán một cách khách quan, khoa học về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nêu trên, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,… đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Các phong trao phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân- yếu tố bản chất nhất của dân chủ.
Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bô phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới ¾ nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trao “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Sự rêu rao bình đẳng về quyền, nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ”, dù có thể thay đổi chính phủ, nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản[2].
Như vậy, tất yếu, với bản chất và những mâu thuẫn nội tại vốn có, hiện hữu, trong lòng chủ nghĩa tư bản đang ủ chứa những giới hạn mà tự bản thân phương thức sản xuất này không thể khắc phục được, việc nhân loại tiến lên trình độ phát triển mới, thay thế chủ nghĩa tư bản là tất yếu khách quan. Trong quá trình đó, sự phát triển của Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn phù hợp với tất yếu khách quan như vậy. Lẽ dĩ nhiên, việc phát triển của chúng ta, trên cơ sở nội lực là quyết định, việc kế thừa những thành tựu văn minh nhân loại đã đạt được là cần thiết.
2. Kế thừa một cách khoa học, chọn lọc, một số thành tựu văn minh nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản để phát triển đất nước là quan điểm hết sức đúng đắn
Trên cơ sở khẳng định một cách thuyết phục về tiềm năng, giới hạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng chí Tổng Bí thư cũng thể hiện quan điểm rất biện chứng rằng, việc phát triển của chúng ta theo con đường xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không có nghĩa là phủ định toàn bộ những thành tựu mà loài người đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản. Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua tất cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản[3]. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển.
Thực sự, công cuộc phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp, tất yếu chúng ta phải thực hiện nhiều nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội to lớn, toàn diện. Trong đó, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là một trong những nhiệm vụ to lớn như thế để nâng cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy dịch chuyển văn minh xã hội của đất nước, phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến từ đó tạo tiền đề vật chất cho xã hội mới. Quá trình này đòi hỏi sự huy động sức mạnh tổng hợp từ nội lực cũng như ngoại lực. Khai thác những cơ hội, thành tựu văn minh vật chất về khoa học công nghệ, về quản trị phát triển để thúc đẩy sự phát triển, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công, dịch chuyển văn minh vật chất, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân là hết sức cần thiết.
Trong tư tưởng của mình, đồng chí Tổng Bí thư cũng hết sức thực tiễn, khoa học khi cho rằng: xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu chế độ xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội[4].
Với tinh thần đó, việc kết hợp động lực và nguồn lực phát triển đất nước, khơi dậy ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc với kế thừa những thành tựu văn minh vật chất mà nhân loại đã đã được trong chủ nghĩa tư bản với tư cách như là nguồn ngoại lực để phát triển đất nước là hết sức cần thiết. Theo tư tưởng đó, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tố đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất[5]. Quan điểm này thể hiện sự khách quan trong quan điểm khoa học đúng đắn của đồng chí Tổng Bí thư.
Không chỉ về phương diện phát triển kinh tế, việc kế thừa và tiếp thu các giá trị tinh hoa, văn hóa nhân loại, trong đó có tinh hoa văn hóa của nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản cũng được đồng chí Tổng Bí thư nêu một cách đúng đắn trong quan điểm về phát triển văn hóa dân tộc trong bối cảnh phát triển mới. Đồng chí khẳng định: phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa: Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thười nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới[6].
Như vậy, với quan điểm biện chứng, khách quan, khoa học, tinh thần kiên định và tư duy cách mạng mới, quan điểm về kế thừa một cách chọn lọc những thành tựu văn minh nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản để phát triển đất nước trong bối cảnh mới của đồng chí Tổng Bí thư đã và đang là một trong những căn cứ lý luận sâu sắc để Đảng ta, nhân dân ta thực hiện sự nghiệp phát triển đất nước, xây dựng cơ đồ và vị thế dân tộc Việt Nam trong giai đoạn mới, hướng tới sự nghiệp chủ nghĩa xã hội vĩ đại, đầy sáng tạo của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét