(LLCT) - Thời gian qua, các thế lực thù địch đã công kích, xuyên tạc chính sách quốc phòng của Đảng, Nhà nước ta. Từ đó họ nêu những "đề xuất", "kiến nghị" đòi thay đổi chính sách quốc phòng của Việt Nam. Bài viết phân tích làm rõ những luận cứ khoa học và thực tiễn để phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc đó, đồng thời khẳng định tính đúng đắn trong chính sách quốc phòng "bốn không" của Đảng, Nhà nước ta.
1. Nhận diện quan điểm sai trái, xuyên tạc chính sách quốc phòng của Việt Nam
Những quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam tập trung vào các vấn đề sau:
(1) Các thế lực thù địch cho rằng: “Chỉ có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc”.
Họ cho rằng chính sách “không liên minh quân sự” không chỉ dẫn đến mất lãnh thổ và quyền chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông vào tay Trung Quốc mà còn đe dọa an ninh tổng thể của Việt Nam trong trường hợp chiến tranh xâm lược năm 1979 được lặp lại. Họ lý giải rằng, Việt Nam thực hiện chính sách “bốn không” là nguy cấp, vì sức mạnh quân sự Việt Nam hiện nay là “quá yếu”, “lạc hậu”. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần liên minh quân sự với một nước lớn có thực lực quân sự, quốc phòng mạnh, như: Mỹ, Nga hay Nhật,... thì sẽ được hỗ trợ tối đa về mặt quân sự, kể cả đưa vũ khí trang bị, lực lượng quân đội đến trợ giúp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia. Chúng kết luận, chính sách “không liên minh quân sự” chẳng những không giữ được nước trước xâm lược Trung Quốc mà cũng không giữ nổi chế độ cộng sản, nó còn làm Đảng ta “mất cả chì lẫn chài” (ám chỉ Đảng ta sẽ mất cả quyền lãnh đạo). Thậm chí, chúng cho rằng: “Việt Nam liên minh quân sự với Mỹ sớm ngày nào thì nguy cơ tiếp tục mất đảo, mất quyền chủ quyền trên Biển Đông vào tay Trung Quốc cũng như nguy cơ hứng chịu một cuộc chiến tranh trên biển lẫn đất liền bị đẩy lùi ngày ấy” (!?).
(2) Chúng đưa ra luận điệu: “Không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi”.
Với quan điểm “Không liên minh với nước này để chống nước kia” trong sách trắng quốc phòng, họ cho rằng, “Một khi đã tuyên bố rõ ràng như vậy, chúng ta sẽ khó kiếm được đồng minh” và “làm mất đi con bài mặc cả quan trọng của Việt Nam với cả Mỹ và Trung Quốc’’. Theo chúng, không liên minh quân sự là lỗi thời, lạc hậu; là “đường lối sai lầm”, “đối sách nhu nhược”, là “hành động tự trói”, không phù hợp với xu thế của thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cần phải thay đổi. Đảng, Nhà nước ta nên liên minh quân sự, phải liên kết với nước này thì mới kiềm chế, đối phó được với nước kia để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Thực chất đây là thủ đoạn thâm độc nhằm chống phá đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta, làm cho chúng ta dao động và ngả sang một bên nào đấy để chống lại bên kia.
(3) Chúng cho rằng “Đảng, Nhà nước ta vẫn kiên định chính sách “bốn không” là sẽ không có bạn chí cốt nên dễ bị cô lập trước những tình huống nguy hiểm”.
Họ cho rằng việc Đảng, Nhà nước ta thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” sẽ cản trở hoặc làm mất đi cơ hội để Việt Nam kết bạn với các nước, thậm chí sẽ làm mất đi những người bạn chí cốt đã từng keo sơn gắn bó với Việt Nam trước đây. Từ đó suy diễn rằng chúng ta “dễ bị cô lập trước những tình huống nguy hiểm”(!).
2. Luận cứ phê phán
(1) Phải chăng muốn bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc thì phải liên minh quân sự với một cường quốc?
Một là, chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc là thiêng liêng và tối cao không thể phó thác hoàn toàn cho bên ngoài, dù đó là một đồng minh cường quốc.
Chúng ta không phủ nhận vai trò, tác dụng tích cực của liên minh trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chúng ta chưa bao giờ liên minh quân sự với cường quốc nào. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, Việt Nam nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN, các nước bạn bè, nhưng chúng ta không tham gia khối liên minh quân sự nào của Liên Xô và Đông Âu. Chúng ta tham gia thành lập khối liên minh Việt Nam - Lào - Campuchia (13-3-1951) nhằm tăng cường khối đại đoàn kết ba nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và tay sai, giành độc lập hoàn toàn, xây dựng đất nước, làm cho nhân dân ba nước được tự do, hạnh phúc và tiến bộ. Đây là liên minh mang tính tự vệ, chính nghĩa trong vai trò như một trong những phương thức bảo vệ Tổ quốc vào thời điểm lúc đó. Xuyên suốt lịch sử quân sự Việt Nam, cho đến nay, không có quan điểm lý luận liên minh quân sự để chống lại nước khác, hoặc như là một giải pháp để bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Ngay trong điều kiện hai cuộc kháng chiến cực kỳ tàn khốc, ác liệt, gian khổ và kéo dài, Việt Nam vẫn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ không tham gia liên minh quân sự với cường quốc.
Trong điều kiện hòa bình hiện nay, khi mà xu hướng đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc trên thế giới ngày càng chủ đạo thì việc các nước giúp nhau bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc không hề đơn giản. Cốt vật chất để gắn kết các liên minh chính là lợi ích chung và phần lợi ích của mỗi bên thành viên trong liên minh nhận được. Những liên minh “thần thánh” đều là giả tưởng trong đầu óc của những nhà huyễn tưởng, không có chỗ đứng trong thực tiễn chính trị - quân sự sống động, phức tạp và thực dụng hiện nay.
Hai là, muốn bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc thì phải nêu cao tính độc lập, tự chủ, không thể ảo tưởng trông chờ vào liên minh.
Trên thế giới có ba kiểu liên minh phổ biến là: (1) Nước lớn liên minh với nước lớn; (2) Nước lớn liên minh với nước nhỏ hoặc nước nhỏ liên minh với nước lớn; (3) Nước nhỏ liên minh với nước nhỏ. Việc một nước nhỏ muốn liên minh quân sự với một cường quốc (nước lớn) nhằm mục đích bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc của mình, vậy lợi ích của cường quốc sẽ là gì trong sự liên minh này? Xưa nay không ai cho không ai bao giờ; cái gì cũng có giá của nó. Cái giá ở đây là nước nhỏ có thể tránh được nguy cơ mất chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc mình trước một mối đe dọa nào đó từ bên ngoài, nhưng trước khi có thể tránh được những nguy cơ đó, thì cái giá phải trả hiện hữu và có thật, đó là: nước nhỏ phải chấp nhận nhượng bộ ít nhiều về chủ quyền hoặc lợi ích quốc gia - dân tộc mình với cường quốc liên minh. Đó là vốn liếng, tài sản “thế chấp” để nhận được những “cam kết” bảo vệ an ninh từ đồng minh. Đó cũng là “luật chơi” không thể khác trong quan hệ quốc tế hiện nay. Ở đây nước nhỏ đã đem lợi ích thực tế để đánh đổi lấy khả năng bảo vệ an ninh. Một khả năng mà khi muốn hiện thực hóa nó bao giờ cũng gắn với những điều kiện “đính kèm” cần và đủ từ phía các đồng minh nước lớn. Nói như vậy không có nghĩa là hoài nghi, nghi kị đồng minh, mà muốn nói tới một thực tế, một khía cạnh của luật chơi trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Thực tế lịch sử thế giới từ trước tới nay, nhất là gần đây cho thấy không phải cứ có liên minh với một cường quốc quân sự là có thể bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc của các nước trong liên minh, nhất là các nước nhỏ. Các cường quốc luôn xử lý quan hệ với các đồng minh theo tiêu chí và triết lý ưu tiên lợi ích “trước hết”, “trên hết”, “cốt lõi” của họ. Trong thực tế, không ít đồng minh của các cường quốc đã bị “lạnh nhạt”, “làm ngơ” đến “bỏ rơi”, thậm chí “phản bội” đồng minh để bắt tay với đối thủ của cường quốc đồng minh. Gần đây, trường hợp của Philíppin, một đồng minh thân cận của Mỹ, khi bị một cường quốc khác đe dọa, xâm phạm chủ quyền trên bãi cạn Scaborough (Hoàng Nham, năm 2012), nhưng siêu cường Mỹ cũng không làm gì trước sự cầu cứu của đồng minh nước nhỏ. Bởi tại Điều khoản số 5 của Hiệp ước an ninh Mỹ - Philíppin (năm1951) chỉ xem các cuộc tấn công vũ trang trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán (jurisdiction) của cả hai ở khu vực Thái Bình Dương là mối đe dọa chung đối với an ninh của cả hai và Mỹ có trách nhiệm phải bảo vệ. Mỹ sẽ không có trách nhiệm phải bảo vệ Philíppin khi bãi cạn Scarborough bị tấn công. Mặt khác, Mỹ cũng không muốn phải vướng vào một cuộc chiến không đáng có ở Biển Đông. Điều này cũng đúng với thực tế lịch sử, trên thế giới chưa bao giờ một nước nào đó lại hy sinh lợi ích của dân tộc mình vì lợi ích của một dân tộc khác. Từ đó, có thể rút ra một hệ luận: trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, kể cả thời bình lẫn thời chiến, phải luôn nêu cao tính độc lập, tự chủ, không thể ảo tưởng trông chờ sự trợ giúp của nước ngoài.
Quan điểm xuyên suốt của Việt Nam là phải tự lực, từ cường, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, dựa vào sức mình là chính, trên cơ sở thực lực sức mạnh của quốc gia - dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè và cộng đồng quốc tế, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam không nghiêng hẳn về một bên nào; không đi theo một cường quốc nào, không dựa hẳn vào một cường quốc nào để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc mình.
Ba là, không phải vì sức mạnh quốc phòng của ta “quá yếu” và “lạc hậu” nên phải liên minh quân sự với nước ngoài.
Nếu cho rằng chỉ vì ta yếu và lạc hậu mới cần đến liên minh vậy khi ta mạnh và hiện đại có cần liên minh không? Vì thực tế cho thấy, có những trường hợp nước lớn vẫn chủ động liên minh với nước nhỏ và cũng có trường hợp nước nhỏ khước từ liên minh với nước lớn. Vậy phải lý giải thế nào cho thỏa đáng vấn đề này? Như chúng ta đã biết, mấu chốt của liên minh quân sự không hoàn toàn bắt nguồn từ sức mạnh quân sự yếu hay mạnh mà từ lợi ích và quan điểm của mỗi bên tham gia liên minh.
Hơn nữa, cho rằng sức mạnh quân sự của ta yếu và lạc hậu là không hoàn toàn đúng với thực tế. Theo bảng xếp hạng Chỉ số sức mạnh quân sự toàn cầu của trang web Global Firepower (Hỏa lực toàn cầu - GFP), dựa vào 55 chỉ số (ngoại trừ vũ khí hạt nhân), chủ yếu là dân số, diện tích, số lượng vũ khí, ngân sách quốc phòng, nguồn nhân lực, giao thông, việc tiếp cận các tài sản chiến lược, nguồn nhiên liệu, và điều kiện kinh tế hiện tại, thì trong 5 năm gần đây, Việt Nam luôn ở trong tốp 25 nước có sức mạnh quân sự lớn nhất trên thế giới. Cụ thể là, năm 2016, Việt Nam xếp ở vị trí số 17/126 nước; năm 2017, ở trí số 16/127 nước; năm 2018, ở vị trí số 20/133 nước; năm 2019, ở vị trí số 23/137 nước; năm 2020, ở vị trí thứ 22/137 nước.
Tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa bình, trở thành điểm thu hút đầu tư và du lịch hấp dẫn của thế giới.
Về xây dựng Quân đội, chúng ta đã và đang thực hiện đồng bộ các giải pháp xây dựng Quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống(1).
Mặt khác, sức mạnh quân sự của một quốc gia bao giờ cũng đặt trong mối quan hệ với sức mạnh tổng hợp của quốc gia đó, không thể tách rời được. Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới, sức mạnh tổng hợp của quốc gia - dân tộc bao gồm sức mạnh vật chất và tinh thần, sức mạnh của truyền thống và hiện đại, sức mạnh cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại bắt nguồn từ sức mạnh của con người Việt Nam không ngừng được nâng cao, thế và lực của đất nước được nâng lên một tầm cao mới. Chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững và tăng cường, ngày càng phát huy tính ưu việt, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được giữ vững. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Nhờ đó, tạo ra vận hội mới, tạo nên bệ phóng vững chắc để đưa nước ta vươn lên những đỉnh cao mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Như vậy, trên bình diện sức mạnh quân sự, cũng như trên bình diện sức mạnh tổng hợp của quốc gia, sức mạnh của Việt Nam không phải là “quá yếu” và “lạc hậu” như những kẻ ác ý, hay yếu bóng vía rêu rao. Chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để khẳng định và tin tưởng vào sức mạnh của đất nước và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đủ để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi tình huống, mà không nhất thiết phải liên minh quân sự với nước ngoài.
Bốn là, thành công của Việt Nam trong giữ vững chủ quyền, độc lập, bảo vệ lợi ích của quốc gia - dân tộc những năm qua chính là thành công của xây dựng nền quốc phòng, an ninh độc lập, tự chủ, tự cường và thực hiện thắng lợi “đa dạng hóa, đa phương hóa” quan hệ đối ngoại.
Lịch sử chiến tranh của Việt Nam đã khẳng định, chính việc phát huy sức mạnh nội lực, tự lực, tự cường mới là yếu tố quyết định tạo ra nguồn sức mạnh to lớn nhất, vững chắc nhất để bảo vệ Tổ quốc. Thực tế trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược và tay sai trong thế kỷ XX đã khẳng định: nhân dân ta giành được thắng lợi to lớn chính là nhờ thực hiện đường lối quân sự độc lập, tự chủ, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang.
Ngày nay, việc xây dựng nền quốc phòng, an ninh độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường kết hợp với mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh là bảo đảm vững chắc cho bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc.
Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016) của Đảng khẳng định: Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quyết định(2).
Chủ động hợp tác về quốc phòng, an ninh là tạo điều kiện củng cố và phát triển quốc phòng, an ninh, để hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang. Tính đến nay, Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ đối ngoại quốc phòng với trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ; đặt văn phòng tùy viên quân sự tại Liên hợp quốc và 37 quốc gia khác; có 49 quốc gia đặt văn phòng tùy viên quân sự tại Việt Nam(3). Quan hệ quốc phòng của Việt Nam với các nước ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả hơn. Quan hệ hợp tác quốc phòng được nhiều nước đối tác coi là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ hợp tác với Việt Nam. Bên cạnh việc coi trọng quan hệ hợp tác về an ninh và quốc phòng với các nước láng giềng (Lào, Campuchia, Thái Lan, Philíppin, Xinhgapo...), Việt Nam cũng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng với các nước, các khối nước, như Nhật Bản, Ôxtrâylia, Ixraen, Cuba, Ấn Độ, Italia, Liên minh châu Âu (EU),... đặc biệt chú trọng tới quan hệ hợp tác quốc phòng với các nước lớn, có ảnh hưởng chi phối trong khu vực và trên thế giới, như Nga, Trung Quốc và Mỹ.
Như vậy, chủ trương không tham gia liên minh quân sự là đúng đắn và phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay khi hòa bình, hợp tác, phát triển đang là xu thế chủ đạo và chủ trương đối ngoại của Việt Nam là đa dạng hóa, đa phương hóa. Thực hiện chủ trương này là cơ sở để chúng ta tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay.
(2) Phải chăng không liên minh với nước này để chống nước kia “là đi ngược lại xu thế của thời đại, là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi?”
Một là, có phải xu thế thời đại hiện nay là liên minh với nước này để chống nước khác?
Thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở bằng Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, là “thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”. Xét về bản chất, toàn cầu hóa là “quá trình tăng lên mạnh mẽ các mối liên hệ, sự ảnh hưởng lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các quốc gia, các khu vực trên thế giới”(4). Toàn cầu hóa từ một xu thế đã trở thành một quá trình hiện thực của sự vận động và phát triển của xã hội loài người. Song hành và đối ngược với quá trình toàn cầu hóa là phong trào chống toàn cầu hóa (nội dung cốt lõi là chống lại mặt trái của toàn cầu hóa). Những người ủng hộ toàn cầu hóa liên kết với nhau và những người chống toàn cầu hóa cũng liên kết với nhau. Hai nhóm người này đấu tranh với nhau, căn nguyên của cuộc đấu tranh này chính là những bất đồng về lợi ích mà quá trình toàn cầu hóa đem lại cho mỗi nhóm. Trong đó, có nhóm được hưởng lợi và nhóm bị thiệt thòi. Cuộc đấu tranh này chính là nhằm phân chia lại lợi ích của các lực lượng trong quá trình toàn cầu hóa. Trong cuộc đấu tranh đó, tất yếu có sự liên kết tự nhiên của những lực lượng, những nhóm người có cùng lợi ích, chủ yếu ở góc độ kinh tế. Nó không phải là liên minh/liên kết quân sự giữa các quốc gia với nhau hay giữa quân đội của các quốc gia với nhau. Sự liên kết (tập hợp) lực lượng ở đây, nếu có, chỉ là để chống hoặc ủng hộ toàn cầu hóa chứ không phải là liên minh với nước này để chống nước kia hay ngược lại. Vì trong nội bộ mỗi nước, kể cả các nước nhỏ lẫn siêu cường, cũng đều vấp phải cuộc đấu tranh giữa hai lực lượng này khi phải quyết định lựa chọn xu hướng phát triển cho đất nước mình. Cuộc đấu tranh này chi phối từ dân thường đến các cấp lãnh đạo của mỗi quốc gia.
Cho nên, nói rằng không liên minh với nước này để chống nước kia “là đi ngược lại xu thế của thời đại” là cách hiểu phiến diện, không đầy đủ, không đúng về bản chất của toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa, không nắm được bản chất, xu hướng và quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, thế giới bước vào một giai đoạn phát triển mới mà ở đó: “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế”(5). Chính trong bối cảnh ấy mà Việt Nam liên minh quân sự với nước nào, nhất là liên minh với nước lớn, để chống nước khác mới là không thực tế và rất nguy hiểm.
Hai là, có phải không liên minh quân sự “là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi?”
Trước hết, cần phải thống nhất rằng, liên minh quân sự không đồng nhất với quan hệ hợp tác quốc tế về quân sự, quốc phòng. Khi tham gia liên minh, các nước sẽ nằm trong một khối quân sự chung, với những mục tiêu cụ thể, dùng các biện pháp quân sự để tranh giành lợi ích, xung đột chống đối thủ chung. Các nước trong liên minh sẽ phải đặt dưới sự chỉ huy, lãnh đạo của một quốc gia, thường là nước lớn và tuân thủ các nguyên tắc của liên minh, cho dù không hoàn toàn phù hợp với mình. Và chính điều này đã tạo ra sự ràng buộc giữa các nước, làm cho mỗi nước không còn độc lập, tự chủ về những vấn đề của đất nước mình.
Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự nhưng chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng - an ninh với tất cả các nước trong khu vực, trao đổi thông tin tình báo, hợp tác tuần tra chung biên giới trên bộ, trên biển (Việt Nam - Campuchia, Việt Nam - Thái Lan, Việt Nam - Trung Quốc...); hợp tác chống tội phạm xuyên quốc gia, mua bán người và ma túy... Hiện nay, Việt Nam đang tham gia vào các sáng kiến nhằm thúc đẩy hợp tác quốc phòng - an ninh nội khối như hợp tác công nghiệp quốc phòng ASEAN; sử dụng nguồn lực và khả năng quân đội các nước khu vực trong hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa; xác định các biện pháp khả thi cũng như cơ chế tăng cường hợp tác giữa các tổ chức quốc phòng ASEAN. Trong khuôn khổ hợp tác, hằng năm, Việt Nam tham gia đầy đủ các hội nghị như: Hội nghị người đứng đầu quân đội ASEAN (ACDFIM), Hội nghị Tư lệnh Lục quân ASEAN (ACAMM), Hội nghị Tư lệnh Hải quân ASEAN (ANCM) và Hội nghị Tư lệnh Không quân ASEAN (AACC), Hội nghị không chính thức những người đứng đầu tình báo quốc phòng các nước ASEAN (AMIIM)...
Hoạt động đối ngoại quốc phòng đa phương của Việt Nam đã đóng góp vào giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, bảo vệ các lợi ích quốc gia của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực; góp phần củng cố và duy trì hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho thực hiện nhiệm vụ trung tâm phát triển kinh tế đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, bảo vệ các lợi ích quốc gia của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực; góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Quân đội ta.
Như vậy, trong điều kiện hòa bình hiện nay, “không liên minh quân sự”, “không liên kết với nước này để chống nước khác “không phải là “tự trói buộc mình”, mà nó giúp chúng ta độc lập, tự chủ, không bị chi phối, áp đặt bởi yếu tố bên ngoài, tức là không bị “người khác trói mình”.
Ba là, trên bình diện quan hệ quốc tế, Việt Nam hiện là nước thành viên của Phong trào Không liên kết, cho nên chủ trương không liên minh với nước này để chống nước kia là phù hợp với mục tiêu và nguyên tắc của Phong trào.
Phong trào Không liên kết được thành lập vào năm 1961, đến nay có 120 nước thành viên, 17 nước quan sát viên, trở thành tổ chức có số lượng thành viên lớn thứ hai thế giới sau Liên hợp quốc. Không liên kết là một tập hợp lực lượng của các nước đang phát triển, với mục tiêu chính là thúc đẩy lợi ích của các nước đang phát triển; đóng góp vào duy trì hòa bình, độc lập dân tộc; chung sống hòa bình giữa các quốc gia và chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp, công bằng cho mọi người dân.
Việt Nam chính thức tham gia Phong trào Không liên kết năm 1976 và từ đó đến nay luôn tích cực hoạt động, có nhiều đóng góp đối với Phong trào vì các mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội và phát triển. Việt Nam luôn đóng góp vào việc giữ vững các nguyên tắc của Phong trào, tăng cường đoàn kết để cùng nhau phấn đấu vì những mục tiêu cao cả của Phong trào, đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng bình đẳng chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ giữa các quốc gia và giải quyết tranh chấp một cách hòa bình.
Với việc không liên kết với nước này để chống nước kia, Việt Nam luôn thể hiện là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Và đây cũng là thành tựu đóng góp cho “đối ngoại tiếp tục là một điểm sáng trong những thành tựu chung của cả nước”, góp phần tạo dựng môi trường thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của nước ta.
(3) Phải chăng kiên định quan điểm “bốn không” sẽ không có bạn chí cốt, nên dễ bị cô lập trước các tình huống nguy hiểm?
Trước hết, cần khẳng định quan điểm “bốn không” trong chính sách quốc phòng không hề mâu thuẫn với chủ trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(6). Trong thời kỳ chiến tranh trước đây, Việt Nam đã xử lý rất tốt mối quan hệ giữa chính trị, quân sự và ngoại giao; kết hợp “vừa đánh, vừa đàm” hết sức uyển chuyển, nhịp nhàng và hiệu quả. Ngày nay, những kinh nghiệm quý báu đó được đúc kết, vận dụng vào giải quyết quan hệ kết hợp giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Việc thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không”, vì thế không cản trở quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước và các đối tác, trái lại, chính sự minh bạch, rõ ràng và sòng phẳng về mặt quan điểm này lại là cơ sở cho các quốc gia, các đối tác xem xét, cân nhắc để thiết lập một mối quan hệ hợp tác bền chặt lâu dài với Việt Nam.
Hai là, trên thực tế, Việt Nam thực hiện đúng đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng đã đề ra. Chính điều này đã đem lại lòng tin chiến lược - một nền tảng hết sức quan trọng cho các đối tác, các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Nhờ đó, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước cùng với 13 nước đối tác toàn diện; là nước duy nhất tại khu vực Đông Nam Á xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với tất cả năm nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các nước lớn, góp phần định vị vững chắc hơn vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn trong bối cảnh cục diện khu vực, thế giới có nhiều biến đổi; có quan hệ đặc biệt với Lào, quan hệ hợp tác toàn diện với Campuchia; xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với những nước có vai trò quan trọng ở các khu vực khác như châu Phi, Mỹ Latinh...
Ba là, cũng cần phải nói rằng, Việt Nam chủ trương chính sách quốc phòng “bốn không” là cơ sở để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay. Tuy nhiên, tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Việt Nam kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo, linh hoạt; chủ động ứng phó với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, sự biến động phức tạp của tình hình. Trên thực tế, Việt Nam đã và đang thực hiện đồng bộ các nội dung: (1) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức của toàn Đảng toàn dân, toàn quân, nhất là các lực lượng chấp pháp trên biên giới, vùng biển, đảo về chính sách quốc phòng của Việt Nam; (2) Thực hiện có hiệu quả việc tăng cường hợp tác, đối ngoại quốc phòng theo chiều sâu và bền vững; (3) Quan tâm đầu tư xây dựng lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không”, Việt Nam cũng chủ trương “bốn tránh”: (1) Tránh xung đột về quân sự; (2) Tránh bị cô lập về kinh tế; (3) Tránh bị cô lập về ngoại giao; (4) Tránh bị lệ thuộc về chính trị. Có thể nói đây là hệ thống đồng bộ các quan điểm chiến lược của Việt Nam về chính sách quốc phòng và đối ngoại nhằm tạo lập và gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, góp phần huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
__________________
(1), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.157-158, 105.
(2) ĐCSVN: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016),Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.119-120.
(3) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam,Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.26-29.
(4) Tài liệu tham khảo đặc biệt, Thông tấn xã Việt Nam (tháng 3-2001), tr. 3.
(6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2011, tr.236.
PGS, TS PHAN TRỌNG HÀO
Hội đồng Lý luận Trung ương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét