Trước C. Mác, đã có không ít các học thuyết phân chia xã hội theo nhiều cách khác nhau. Vicô (1688-1744) phân chia các giai đoạn phát triển xã hội theo vòng đời của một con người: thơ ấu, thanh niên, thành niên và tuổi già; Hêghen (1770-1831) lại phân chia lịch sử loài người thành ba thời kỳ: Phương Đông, Cổ đại và Giécmani; Phuriê (1771- 1837) chia xã hội thành bốn thời kỳ: mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh; còn Móoc-gan (1818- 1881) người cùng thời với C. Mác lại chia xã hội thành ba thời kỳ - mông muội, dã man và văn minh. Cách phân chia như trên không đem lại cách nhìn nhận, cải tạo xã hội đúng đắn, nhất là đối với một xã hội cụ thể. Sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác đã đánh dấu một bước phát triển nhảy vọt của nhận thức loài người về xã hội, từ đây các khoa học xã hội đã thực sự trở thành khoa học thoát khỏi sự mô tả thông thường. Bởi những lý do sau.
Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của C. Mác đã phản ánh đúng đắn sự ra đời, vận động phát
triển diệt vong của một xã hội cụ thể.
Khắc phục cách
nhìn nhận xã hội chung chung trừu tượng của các nhà tư tưởng trong lịch sử,
bằng tư duy biện chứng duy vật C. Mác khẳng định phạn trù hình thái kinh tế -
xã hội là để chỉ một xã hội cụ thể, một
nấc thang, một giai đoạn của sự phát triển xã hội loài người.
Xã hội ấy là một chỉnh thể, một cơ thể sống,
có tổ chức kết cấu thống nhất. Kết cấu ấy là sự thống nhất giữa những quan hệ vật
chất và quan hệ tinh thần, trong đó quan hệ sản xuất vật chất là quan hệ khách
quan, đầu tiên, quan hệ cơ bản quyết định mọi quan hệ khác (trong đó có quan hệ
tinh thần, tư tưởng) và là quan hệ quyết định bản chất của một hình thái kinh
tế - xã hội. Xã hội ấy gồm ba yếu tố cơ bản tạo nên là lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất đặc trưng và kiến trúc thượng tầng tương ứng, trong đó lực lượng
sản xuất là cái suy đến cùng quyết định sự tồn tại phát triển của hình thái
kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất đặc trưng là cái quyết định bản chất hình thái kinh tế - xã hội, kiến trúc thượng
tầng có vai trò tác động trở lại rất to lớn đối với quan hệ sản xuất thông qua
đó tác động đến sự vận động biến đổi của lực lượng sản xuất.
Nhưng học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội không chỉ phản ánh xã hội trong trạng thái tĩnh với
tư cách là tổng hòa các yếu tố, các mối quan hệ giữa người và người, mà còn
phản ánh xã hội trong trạng thái vận
động, phát triển dưới sự tác động của các quy luật, các mâu thuẫn khách quan
nảy sinh trong lòng nó. Các quy luật này không phải ở bên ngoài du nhập tới,
không phải ý muốn chủ quan của các bậc siêu nhiên áp đặt vào, càng không phải
là sự sao chép của một thực thể nào khác của thế giới sinh học, hay của cá thể
con người, mà nảy sinh từ chính những
mối quan hệ giữa các yếu tố, các quan hệ tạo thành hình thái kinh tế - xã hội. Đó là quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy
luật về quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng.
Sự phát huy tác dụng của các quy luật này làm
xuất hiện những mâu thuẫn bất cập giữa các yếu tố cơ bản của hình thái kinh tế - xã hội, tạo nên
nguồn gốc động lực và nguyên nhân nhân thật sự của sự sự tồn tại, phát triển
của một hình thái kinh tế - xã hội, của cơ thể sống ấy; và cũng chính sự vận
động của những quy luật và những mâu thuẫn bên trong của một hình thái kinh tế
- xã hội này sẽ đưa nó đến diệt vong, theo đó làm xuất hiện một hình thái kinh
tế - xã hội mới tiến bộ hơn.
Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của C. Mác, phản ánh xã hội trong một giai đoạn phát
triển nhất định, với tư cách là một cơ thể sống, không chỉ trong hiện tại mà
còn là kết quả của sự tiếp nối không thể tách rời của quá khứ và tương lai.
Điều này khẳng định toàn bộ trạng thái của một xã hội và các yếu tố, các quan
hệ đều là kết quả không chỉ từ tác động của những nhân tố, quan hệ, hoàn cảnh,
điều kiện đương đại mà còn là sự kế thừa có chọn lọc của quá khứ. Đến lượt nó,
xã hội hiện tại cùng toàn bộ những yếu tố quan hệ cấu thành nó lại là cơ sở cho
sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội tương lai.
Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của C. Mác chỉ rõ, mỗi hình thái kinh tế - xã hội là sản
phẩm của sự tương tác giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa sự
vận động của những quy luật khách quan với hoạt động nhận thức và cải tạo của
con người. Sự vận động, phát triển của xã hội trước hết là do những quy luật
khách quan quy định, các quy luật này không những không phụ thuộc vào ý muốn
của con người, mà còn quy định hoạt động của họ. Song các quy luật xã hội chỉ
có thể phát huy, tác dụng và tồn tại thông qua nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người. Do vậy, trong sự vận động biến đổi của xã hội nói chung của các
hình thái kinh tế - xã hội nói riêng, hoạt động nhận thức và cải tạo của con
người có vai trò rất quan trọng. Thông qua nhận thức và hoạt động của mình, con
người có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quy luật hoạt động phát huy
tác dụng. Con người có thể thay đổi hình thức, trật tự tác động của quy luật theo
mục đích của mình, con người có thể sử dụng quy luật này hạn chế hoặc thúc đẩy
sự phát triển của quy luật kia và ngược lại. Chính hoạt động nhận thức và cải
tạo của con người, nhất là hoạt động nhận thức và cải tạo của những tập đoàn xã
hội có vai trò chính yếu trong xã hội đó, như giai cấp thống trị, giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất mới sẽ là động lực thúc đẩy hay nhân tố kìm hãm sự phát triển của một hình
thái kinh tế xã hội, là nhân tố làm cho xã hội phát triển quanh co thụt lùi,
biến dạng hay có thể bỏ qua những hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời lạc
hậu để phát triển lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Nếu không có nhân tố
chủ quan này sự vận động của xã hội sẽ như như một đường thẳng, một định mệnh,
nhạt nhẽo theo sự sắp đặt của các đấng siêu nhiên, hoặc vòng xoay luân hồi
trong trí tưởng tượng của các tín đồ tôn giáo.
Như vậy, trong các nhân tố quy định sự vận
động phát triển của hình thái kinh tế -
xã hội, theo quan điểm của C. Mác, vai trò quyết định suy đến cùng thuộc về các
quy luật khách quan, nhưng hoạt động nhận thức của con người có vai trò rất
quan trọng; nó là nhân tố quyết định trực tiếp. Quan điểm này của C. Mác cung
cấp cho loài người thế giới quan, phương pháp luận trong xem xét sự vận động
phát triển phức tạp của các hình thái kinh tế - xã hội ở các quốc gia dân tộc,
và sự vận động tuần tự hay bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội ở một
số quốc gia dân tộc trong lịch sử và hiện nay.
Quan điểm của C.
Mác về hình thái kinh tế - xã hội còn cung cấp cho con người con đường biện
pháp, cách thức, bước đi thích hợp để xây dựng một xã hội phát triển.
Khi khẳng định
xã hội là một cơ thể sống, các yếu tố lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất gắn
bó chặt chẽ làm tiền đề điều kiện cho nhau, đồng nghĩa với việc muốn xã hội phát
triển các yếu tố cơ bản trên đây phải được xây dựng phát triển một cách hài
hòa. Nguyên tắc của sự hài hòa đó là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với các
quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sản xuất đặc trưng quan hệ sản xuất
thống trị. Sự cân đối hài hòa này còn tùy điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Song
thước đo cao nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự giải phóng năng
lực người, mức độ hạnh phúc của nhân dân lao động. Mặt khác khi khẳng định lực
lượng sản xuất là nhân tố suy đến cùng quyết định sự phát triển của hình thái
kinh tế - xã hội, điều đó cũng đồng nghĩa, khi xây dựng cải tạo xã hội, trước
hết, trên hết phải tập trung cao nhất cho sự phát triển lực lượng sản xuất, cho
sự phát triển hoàn thiện, phát triển các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất,
các điều kiện, môi trường hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát triển quy mô, trình
độ, tính chất của lực lượng sản xuất.
Hơn nữa, học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội chỉ rõ trong xem xét cải tạo xã hội không
được tuyệt đối hóa sự phát triển lực lượng sản xuất. Cho nên, khi xây dựng phát
triển xã hội phải đồng thời chú ý phát triển quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất ấy, đồng thời phải quan tâm phát triển
kiến trúc thượng tầng với tính cách là bộ mặt tinh thần của xã hội sao cho phù
hợp với cơ sở hạ tầng và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Bởi, tiến hành
xác lập quan hệ sản xuất phù hợp tiến bộ, không chỉ là xây dựng quan hệ cơ bản,
đầu tiên quyết định sự tồn tại, biến đổi
mọi quan hệ khác của xã hội, mà còn xác lập, giải quyết hài hòa lợi ích của
những người tham gia vào quá trình sản xuất, tạo nên động lực căn bản to lớn
nhất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, làm cho người lao động, nhân tố
chủ yếu nhất của lực lượng sản xuất phấn khởi, nâng cao năng suất lao động, tạo
nên chiến thắng của hình thái kinh tế - xã hội này đối với hình thái kinh tế -
xã hội khác. Xây dựng, phát triển kiến trúc thượng tầng tương ứng không chỉ là
xây dựng một bộ mặt tinh thần xã hội làm cho xã hội phát triển bền vững, mà
ngày nay, đó còn là xây dựng nhà nước -
một lực lượng kinh tế hùng mạnh thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
Xây dựng phát triển xã hội, theo C. Mác trước hết phải phát huy cao độ
nhân tố chủ quan của con người, của toàn thể quần chúng nhân dân lao động,
trước hết vai trò của giai cấp, tập đoàn lãnh đạo xã hội, trong việc nhận thức
và vận dụng các quy luật xã hội. Phát huy tốt vai trò này xã hội sẽ phát triển,
nhân loại sớm đi đến bến bờ hạnh phúc, bớt phải gánh chịu những tổn thất nặng
nề, những cái giá quá đắt trong sự phát triển xã hội, trong mối quan hệ với “bà
mẹ” tự nhiên và với đồng loại.
Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của C. Mác còn cung cấp cho con người một công cụ để đánh
giá sự vận động phát triển, diệt vong của một xã hội cụ thể.
Sự phát triển giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng, trong sự hài hòa tương ứng, hỗ trợ tạo điều kiện cho nhau phát
triển, trong đó sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự tăng lên không
ngừng của năng suất lao động, sự phấn khởi hạnh phúc của nhân dân lao động là
thước đo cao nhất cho sự ổn định, phát triển, cho sự tồn tại thích nghi của một
hình thái kinh tế - xã hội.
Ngược lại, sự
phát triển không hoặc thiếu cân đối hài hòa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng nếu không sớm được phát
hiện giải quyết kịp thời, thì ít nhất sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội hoặc
sớm muộn sẽ đưa xã hội đến diệt vong.
Trong sự vận
động, phát triển theo quy luật của hình thái kinh tế - xã hội và các yếu tố cấu
thành nó, dù hiện tại đang rất vững vàng, mạnh mẽ, nhưng luôn bao hàm trong đó
sự phủ định, sự diệt vong để thay thế vào đó một hình thái kinh tế - xã hội
tiến bộ hơn. Điều đó là một tất yếu khách quan không thể đảo ngược; nhưng con
người có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình này. Vì thế, đánh giá sự vận động
xã hội, sự biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội cần thấy hết vai trò của
nhân tố chủ quan, nhất là vai trò của giai cấp thống trị xã hội.
Những tiêu chí
trên đây chính là tiêu chuẩn khách quan không chỉ để con người đánh giá sự vận
động phát triển diệt vong của một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể mà còn là
tiêu chí, đánh giá sự ổn định, phát triển bền vững, hay sự trì trệ, khủng hoảng
thiếu vững chắc, thậm chí đang có nguy cơ phá sản của một giai đoạn nhất định
của một hình thái kinh tế - xã hội.
Lịch sử phát
triển của xã hội loài người từ xưa tới nay đã chứng minh tính đúng dắn của học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác. Mọi sự tồn tại ổn định của xã hội phải từ sự ổn dịnh của kinh tế,
của đời sống vật chất. Mọi sự phát triển, hơn nữa mọi sự đổi mới để phát triển
đều phải từ sản xuất vật chất, hướng tớí
phát triển sản xuất. Để sản xuất phát triển, xã hội ổn định phải giải quyết
đúng đắn lợi ích, trước hết là lợi ích giữa người và người trong quá trình sản
xuất theo đó phải xác lập một quan hệ sản xuất phù hợp tiến bộ. Đồng thời muốn
xã hội phát triển các quốc gia dân tộc
còn phải xây dựng kiến trúc thượng tầng thích hợp và có chiến lược nhằm xây
dựng và phát huy cao độ nhân tố con người, nhất là vai trò của giai cấp thống
trị. Hơn nữa, sự phát triển bền vững của một quốc gia dân tộc, dù có chế độ
kinh tế xã hội nào đều phải phát triển
toàn diện hài hòa cân đối lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng, giữa quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần. Ngược lại, mọi sự
vi phạm các nguyên lý của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác đều
dẫn đến hậu quả khôn lường, dù đó là chế độ kinh tế xã hội gì và vào thời điểm
nào.
Cùng là đổi mới, cải cách, cải tổ để củng cố
và phát triển chủ nghĩa xã hội, nhưng Việt Nam, Trung Quốc đổi mới, cải
cách đi từ kinh tế, đồng thời tiến hành
đổi mới toàn diện các lĩnh vực khác của xã hội với những bước đi thích hợp và
đã giành được những thắng lợi to lớn. Ngược lại, Liên Xô cải tổ lại bắt đầu từ
chính trị không quan tâm đổi mới kinh
tế, nên đã chịu hậu quả nặng nề. Những khủng hoảng ở các nước Bắc Phi, Trung Đông
dẫn đến sự ra đi của hàng loạt chế độ chính trị đã từng trị vì đất nước nhiều
chục năm, như ở Li-bi, Ai Cập đưa những đất nước này chìm đắm trong bạo lực,
chia rẽ, ngoài những nguyên nhân phá hoại từ bên ngoài đều có nguyên nhân từ sự
bất ổn về kinh tế, từ sự giải quyết không hài hòa giữa lợi ích của các tập đoàn
lãnh đạo với toàn xã hội, từ sự đói nghèo, sa sút nghiêm trọng của đời sống vật
chất, tinh thần của đa số quần chúng nhân dân lao động.
Sự đỗ vỡ của chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu cũng là bài học cho sự vi phạm những
nguyên lý về xây dựng hình thái kinh tế - xã hội của một mô hình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Thực tiễn ở mô hình này, chúng ta đã quá nhấn mạnh quan hệ sản
xuất, đưa quan hệ sản xuất vượt trước không phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất không những không phát triển mà
còn bị kìm hãm nặng nề. Mặt khác, chúng ta đã không chú ý đúng mức đến việc vận
dụng khoa học công nghệ hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, làm cho đời sống
nhân dân lao động không được cải thiện thậm chí giảm sút, năng suất lao động
không tăng và có xu hướng giảm, trong khi chủ nghĩa tư bản đã triệt để lợi dụng
các thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất,
làm cho năng suất lao động không ngừng tăng và đã nhanh chóng thực hiện những
cải cách trong quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối, ít nhiều đã cải thiện được
đời sống những người lao động. Cùng với đó, trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu lại xuất hiện một kiến trúc thượng tầng về chính trị
rất công kềnh nặng nề kém hiệu quả với những tư tưởng bảo thủ, giáo điều. Do
vậy, sự tan rã của mô hình này ngoài tác
động của chủ nghĩa đế quốc còn có nguyên nhân trực tiếp từ trong bản thân các
yếu tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội, từ vai trò của các Đảng Cộng sản
trong việc nghiên cứu vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác
.
Bài viết rất hấp dẫn bạn đọc
Trả lờiXóa