Thứ Hai, 9 tháng 12, 2019

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ TÔN GIÁO



HT
Thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Nhà nước Việt Nam cũng khẳng định những điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn giáo và chủ nghĩa xã hội. Điều đó, được thể hiện trong Nghị quyết 25: "Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với mục tiêu chung". Đây là luận điểm mới, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về việc khai thác, phát huy những giá trị tốt đẹp trong văn hóa, đạo đức của các tôn giáo với mục tiêu xây dựng xã hội mới ở Việt Nam.
Tuy nhiên, có sự khác biệt về góc độ thế giới quan. Thế giới quan của tôn giáo nói chung và bao trùm là duy tâm, bởi vì tất cả các tôn giáo đều xây dựng niềm tin, lý tưởng và khát vọng về một cuộc sống hạnh phúc “ảo”, xa lạ, đối lập với thế giới trần tục mà họ đang sống. Thế giới quan của lý tưởng chủ nghĩa xã hội là thế giới quan của chủ nghĩa duy vật vô thần đã tồn tại lâu dài trong lịch sử tư tưởng nhân loại và gắn liền hữu cơ với chủ nghĩa duy vật triết học. Trước đây, phê phán tôn giáo từ lập trường trí tuệ và khoa học là một truyền thống của các nhà tư tưởng duy vật và vô thần. Tôn giáo được bác bỏ như một ý thức sai lầm và xuyên tạc, như là toàn bộ những ảo tưởng làm cho bức tranh chân thực của thế giới trở thành đen tối. Cho nên, sự phê phán mạnh mẽ của các nhà duy vật và vô thần trước Mác đối với tôn giáo là một cống hiến to lớn cho sự phát triển chủ nghĩa duy vật và vô thần. Do vậy, sự phê phán tôn giáo đã dẫn tới sự đối lập một cách tuyệt đối và trừu tượng giữa ý thức sai lầm và chân lý, giữa ý thức tôn giáo và ý thức khoa học. Nguồn gốc của tôn giáo chỉ được giải thích như là sự ngu dốt của con người, như là sự lừa dối. Từ đó đặt ra việc, giáo dục, phát triển tri thức khoa học được xem như là những phương tiện chủ yếu để khắc phục tôn giáo. Đây là, những sự hạn chế lịch sử của những quan điểm phiến diện khi nghiên cứu, nhìn nhận về tôn giáo.
          Quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác thì xuất phát từ chỗ cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng xã hội, có nguồn gốc của nó trong những điều kiện vật chất của tồn tại xã hội, cụ thể là ở những mối quan hệ hạn chế của con người với tự nhiên và ở con người với nhau đã sinh ra tôn giáo, những nguyên nhân xã hội đã làm cho nó có một vị trí trong đời sống con người. Đó là, sự bất lực của con người trước những lực lượng của tự nhiên và xã hội có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống và số phận của họ, làm nảy sinh nhu cầu khắc phục những mâu thuẫn của hiện thực ở trong ý thức, trong sự tưởng tượng hư ảo, nhu cầu đền bù sự hạn chế của các mối quan hệ đó ở thế giới bên kia. Nhu cầu tôn giáo ở mức độ ít nhiều khác nhau, tồn tại một cách khách quan trong tất cả các hình thái xã hội. Từ những quan niệm trên, chủ nghĩa Mác tiếp cận phê phán tôn giáo về thực chất là phê phán cái xã hội, nhà nước đã làm nảy sinh nhu cầu tôn giáo. Điều này, C.Mác đã chỉ ra rằng: “Căn cứ của sự phê phán chống tôn giáo là: con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người” và theo đó phê phán tôn giáo phải bóc trần sự tự tha hóa trong những hình tượng không thần thánh của nó, nghĩa là bóc trần hiện thực đã làm nảy sinh nhu cầu tôn giáo. Nh­ư vậy, phê phán thư­ợng giới biến thành phê phán cõi trần, phê phán tôn giáo biến thành phê phán pháp quyền, phê phán thần học biến thành phê phán chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tín đồ Phật giáo tin ở Phật; tín đồ Giatô tin ở đức Chúa Trời; cũng như chúng ta tin ở đạo Khổng. Đó là những vị chí tôn nên chúng ta tin tưởng”[1]. Người chỉ ra rằng “Tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật”, “chủ nghĩa duy linh và chủ nghĩa duy vật khác nhau, rõ ràng là thế”, nhưng không vì vậy mà bài xích, nghi kỵ nhau; ngược lại, phải tôn trọng đức tin của mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ ranh giới rạch ròi giữa một bên là đồng bào tôn giáo chân chính yêu nước với bên kia là những kẻ “giáo gian” vì cam tâm làm tay sai cho giặc, hại nước, phản Chúa. Trên cơ sở phân biệt rõ giữa tín đồ chân chính và những kẻ giáo gian như vậy, Người chủ trương: “bảo vệ tự do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo đã phản Chúa, phản nước”[2].Người khẳng định: “Chẳng những không tiêu diệt tôn giáo mà còn bảo hộ tôn giáo. Đảng cộng sản chỉ tiêu diệt tội ác người bóc lột người”.
Một vấn đề thực tiễn đặt ra là khi được hỏi người Công giáo có thể vào Đảng Lao động Việt Nam không? Người trả lời: "Người tôn giáo nào cũng vào được, miễn là trung thành hăng hái làm nhiệm vụ, giữ đúng kỉ luật của Đảng. Nước ta kinh tế lạc hậu, kĩ thuật kém, tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật nhưng trong điều kiện hiện tại, người theo đạo vẫn vào Đảng được"(21). Như vậy, Hồ Chí Minh chấp nhận sự khác biệt giữa tôn giáo và cộng sản nhưng Người không bao giờ cho rằng sự khác biệt đó nhất thiết dẫn tới sự biệt lập.
 Những quan điểm trên là cơ sở để đấu tranh phê phán, bác bỏ những thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch về chủ nghĩa cộng sản vô thần chống tôn giáo./.



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 4, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, H. 2011, tr. 169.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 8, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, H. 2011, tr. 313.

3 nhận xét:

  1. Thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Nhà nước Việt Nam cũng khẳng định những điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn giáo và chủ nghĩa xã hội.

    Trả lờiXóa
  2. Những quan điểm trong bài viết là cơ sở để đấu tranh phê phán, bác bỏ những thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch về chủ nghĩa cộng sản vô thần chống tôn giáo.

    Trả lờiXóa
  3. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ ranh giới rạch ròi giữa một bên là đồng bào tôn giáo chân chính yêu nước, với bên kia là những kẻ “giáo gian” vì cam tâm làm tay sai cho giặc, hại nước, phản Chúa.

    Trả lờiXóa