Phạm Trung
Truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam đã có từ lâu. Truyền thống quý báu này đã được phát triển lên một tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý lãnh đạo đất nước giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Người nhắc nhở để mọi người dân Việt Nam không được quên công lao của những người đã dũng cảm chiến đấu, hy sinh để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.
Thực hiện lời dạy
của Người, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn đề cao truyền thống, đạo lý “Uống
nước nhớ nguồn”, thường xuyên quan tâm, chăm sóc các gia đình liệt sĩ, thương
binh, bệnh binh. Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ
tử nạn” (về sau đổi tên thành Hội giúp binh sĩ bị thương) đã được thành lập ở Thuận Hóa (Bình Trị
Thiên), Hà Nội,…, Chủ tịch Hồ Chí Minh là Hội trưởng danh dự. Hội
đã có những việc làm rất thiết thực, quyên góp, ủng hộ quần, áo, giầy, mũ cho
chiến sĩ ngoài mặt trận, phát động Cuộc vận động “Mùa đông chiến sĩ”, làm
cho phong trào đền ơn, đáp nghĩa phát triển rộng khắp.
Cuối năm 1946, kháng
chiến toàn quốc bùng nổ, chiến tranh lan rộng, số người bị thương, hy sinh tăng
lên, đời sống của quân và dân ta gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh, liệt
sĩ. Tháng 6 năm 1947, thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị các đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung
ương Hội Phụ nữ Cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Cục chính trị
Quân đội quốc gia Việt Nam, Nha thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã
được tổ chức tại
Đại Từ - Bắc Thái (nay là Thái Nguyên) để bàn về công tác
thương binh, liệt sĩ. Hội nghị đã nhất trí lấy ngày
27/7/1947 làm ngày Thương binh toàn quốc.
Bắt đầu từ ngày Thương binh toàn quốc lần
thứ nhất (27/7/1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xung
phong “gửi một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương
của tôi, một bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một
nghìn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127đ.00).”[1] để ủng hộ anh em thương
binh, gia đình liệt sĩ. Từ đó, ngày 27/7 hằng năm trở thành dịp để Chủ
tịch Hồ Chí Minh và nhân dân cả nước bày tỏ tình cảm, lòng biết ơn sâu sắc đối
với những người đã đóng góp máu, thịt của mình cho sự nghiệp cách mạng. Năm
1955, “Ngày Thương binh toàn quốc” được đổi thành “Ngày Thương binh,
liệt sĩ”.
Năm 1960, nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Người tiếp tục nhấn
mạnh công lao to lớn của các anh hùng liệt
sĩ, những người đã cống hiến một phần xương máu của mình cho sự trường tồn của
dân tộc, “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách
mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước
ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt
sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để
vượt tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt
sĩ đã chuyển lại cho chúng ta.”[2].
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh không quên căn dặn toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta những công
việc cần phải làm ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc. Đầu tiên
phải là công việc đối với con người, phải quan tâm đến thương binh và những
người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Người căn dặn: “Đối
với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh
sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào
phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những
lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa
và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục
tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và
liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở
nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có
công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.”[3].
Tư tưởng, hành động của Chủ
tịch Hồ Chí Minh thực
sự đã tiếp nối được truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” đậm chất nhân
văn của dân tộc Việt Nam, trở thành một tấm gương sáng để mọi người học tập
và noi theo. Để đất nước có được “cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay” các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau nguyện học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không
bao giờ quên ơn những người đã ngã xuống hoặc đã hy sinh một phần xương, máu của
mình cho độc lập tự do của Tổ quốc, cho chủ nghĩa xã hội.
[1] Hồ Chí Minh (1947), Thư gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”, Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2011, tr.205.
[2]
Hồ Chí Minh (1960), Bài nói tại Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng,
Báo Nhân dân, Số 2121, ngày 7-1-1960, Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr.401.
[3]
Hồ Chí Minh (1968), Di chúc, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15,
Nxb CTQG, H.2011, tr.616.
Bác Hồ của chúng ta là như vậy đó
Trả lờiXóa