(TG) - Quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng đồng thời là quá trình đấu tranh với những quan điểm, luận điệu chống phá của các thế lực thù địch. Đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi sự nhạy bén cả về tư duy lẫn cách thức tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN
Kế thừa, tiếp thu, chọn lọc những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng vào điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Trong suốt quá trình tổ chức, xây dựng Nhà nước, Hồ Chí Minh luôn coi trọng hai vấn đề cơ bản: một là. xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân; hai là, bộ máy nhà nước phải được tổ chức hợp pháp và hoạt động trên cơ sở hiến pháp.
Trong Nhà nước pháp quyền, chủ quyền phải thực sự thuộc về nhân dân và phải được thể hiện đầy đủ trong mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân. Nhà nước là công bộc, phục vụ nhân dân. Nhân dân là chủ, làm chủ và là đối tượng được Nhà nước phục vụ. |
Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền của dân là nhà nước do nhân dân làm chủ, nhân dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực để xây dựng các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước pháp quyền do dân, tức là nhà nước đó phải do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình; nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước hoạt động; nhà nước do nhân dân phê bình và xây dựng, giúp đỡ. Mọi cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân, không có một ngoại lệ. Hồ Chí Minh khẳng định: “nước ta là nước dân chủ. Bao nhiều lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(1). Và chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân - phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính.
Cũng theo Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà ở đó pháp luật được đề cao. Nói cách khác, Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ - trước hết phải là nhà nước hợp hiến; tiếp đó là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trên thực tế. Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật. Mọi quyền dân chủ của người dân nhất thiết phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. Do đó, để tiến tới một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, theo Hồ Chí Minh, vấn đề căn bản cốt lõi là phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng hình thành đội ngũ cán bộ, viên chức có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ, có đạo đức cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Không thể có dân chủ ngoài pháp luật. Mọi quyền dân chủ của người dân nhất thiết phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. |
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC TƯ DUY CỦA ĐẢNG
Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đánh tan xiềng xích thực dân gần một trăm năm, đưa chính quyền về tay nhân dân, xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử nước nhà. Tuy nhiên, trước khi đổi mới, quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền chưa thực sự được định hình rõ ràng, cụ thể; quá trình tổ chức thực hiện xây dựng Nhà nước chuyên chính vô sản còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
Dấu mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền được thể hiện rõ nhất lần đầu tiên tại Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (01/1994). Trong Văn kiện này, lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” được sử dụng và nêu cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Ngay sau đó, Hội nghị lần thứ tám (khoá VII) đã ra Nghị quyết về Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Cải cách một bước nền hành chính nhà nước.
Kể từ đó, tiếp thu, kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về mô hình nhà nước, quan điểm về Nhà nước pháp quyền XHCN của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quá trình nhận thức tư duy lý luận của Đảng qua các nhiệm kỳ đại hội từng bước được phát triển. Những quan điểm, đường lối đó được thể hiện rất rõ qua các văn kiện của Đảng và được cụ thể hóa trong Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Sau một thời gian tổ chức xây dựng, tiếp tục nhất quán với quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội XII của Đảng nhận định: “Quan điểm và thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản…”. Tuy nhiên, “chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy pháp quyền xã hội chủ nghĩa như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thật hợp lý, hiệu lực, hiệu quả… Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đặt ra; tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng”(2). Nguyên nhân của tình trạng này được Đảng nêu rõ: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới đối với nước ta. Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước còn những nội dung chưa rõ; phương thức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở các cấp còn chưa được chế định rõ và phù hợp với nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền. Tổ chức thực hiện pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa nghiêm”(3).
Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(4).
Với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, Đại hội XIII của Đảng đã tiến hành điều chỉnh, bổ sung một số điểm mới về tư duy xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân được thực thi trên thực tế. Đồng thời, xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt” để nhân dân làm chủ. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, Đại hội XIII của Đảng trên cơ sở tổng kết lý luận, thực tiễn đã bổ sung, phát triển tư duy về phát triển Nhà nước pháp quyền XHCN. Những bổ sung, phát triển ấy một lần nữa khẳng định: Mặc dù, trong mỗi giai đoạn lịch sử có những thay đổi về mô hình bộ máy nhà nước, nhưng xuyên suốt mạch phát triển là nhận thức và hành động nhất quán về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong điều kiện mới.
ĐẤU TRANH CHỐNG NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC
Lý luận và thực tiễn chỉ ra rằng, mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN đã và đang được triển khai xây dựng và hoàn thiện ở Việt Nam là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, quá trình đó, theo nhận định của Đại hội XIII là vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập cả về nhận thức và tổ chức thực hiện; cùng với đó là những khó khăn, thách thức đến từ sự chống phá của các thế lực thù địch với mức độ, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp.
Xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, phủ nhận nền dân chủ XHCN và Nhà nước pháp quyền XHCN là những trọng tâm chống phá “không ngừng nghỉ” của các đối tượng và thế lực phản động, thù địch, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay. Đấu tranh phòng chống các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc trong thời gian tới cần chú trọng:
Một là, đấu tranh với quan điểm “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”.
Nhằm phủ nhận nền dân chủ XHCN và Nhà nước XHCN, các quan điểm, luận điệu chống phá “khẳng định” rằng chế độ dân chủ tư sản như nó đang tồn tại ở phương Tây là chế độ dân chủ cao nhất, là thiên đường vĩnh hằng; rằng “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”, “đa đảng, đa nguyên là thành tố quan trọng nhất để xây dựng nên một quốc gia dân chủ”, và “đa đảng sẽ bảo đảm quyền làm chủ đất nước của nhân dân”(5); rằng CNXH là chuyên chính, không có dân chủ. Theo đó, những “nhà dân chủ” đòi chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp năm 2013, sửa đổi thể chế Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam theo mô hình tam quyền phân lập, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ vai trò lãnh đạo đối với xã hội, nhất là đối với Nhà nước. Để “cộng hưởng” cho những giọng điệu đó, họ “minh họa” bằng một số bất cập, thiếu sót trong thực tiễn lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, nhất là những khiếm khuyết liên quan đến quản lý cán bộ, đảng viên dẫn đến tình trạng tham nhũng, tha hóa...
Cần khẳng định rằng, đa nguyên, đa đảng không phải là yếu tố duy nhất, nền tảng duy nhất bảo đảm cho một nền dân chủ đích thực mà bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ là một giá trị xã hội, được hình thành và bảo đảm bởi nhiều yếu tố, trong đó có lực lượng cầm quyền xã hội, cơ chế quản lý xã hội và trình độ làm chủ của người dân… Vì vậy, một đảng lãnh đạo không đồng nhất với độc tài lãnh đạo và càng không đồng nhất với mất dân chủ. Theo đó, không nhất thiết cứ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ thật sự. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, quyền và lợi ích của Đảng hoàn toàn thống nhất với nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước là để cho nền dân chủ XHCN cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân luôn được bảo đảm.
Hai là, đấu tranh với quan điểm lợi dụng “xã hội dân sự” để âm mưu gây chuyển hóa chính trị ở Việt Nam.
Bằng nhiều chiêu bài, các thế lực thù địch và thành phần “ngụy dân chủ” thường không ngừng rêu rao về cái gọi là ranh giới giữa “xã hội dân sự” với nhà nước, giữa “công” và “tư”, giữa “chính trị” và “phi chính trị”. Theo đó, họ “thổi lên tận mây xanh”, tuyệt đối hóa, coi “xã hội dân sự” là mô hình xã hội nhân đạo nhất, tốt đẹp nhất, dân chủ nhất và ngược lại, nhà nước là cơ quan bảo thủ, chuyên chế và cưỡng bức. Theo đó, họ “kêu gọi” Đảng Cộng sản Việt Nam phải thúc đẩy “xã hội dân sự” chứ không nên và càng không thể lãnh đạo xây dựng được Nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân.
Mục đích của những luận điệu kêu gọi thúc đẩy “xã hội dân sự” không ngoài nhằm làm suy yếu vai trò tổ chức, quản lý xã hội của Nhà nước, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, qua đó tạo môi trường xã hội cho sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập với Đảng, núp dưới danh nghĩa “xã hội dân sự”. |
“Xã hội dân sự” còn là cái “cớ” để các thế lực chống phá đòi dân chủ hóa bất chấp pháp luật, đòi Nhà nước phải bảo đảm tự do vô giới hạn trong các lĩnh vực; cổ súy cho sự “vượt ngưỡng” và thái quá trong tự do cá nhân; đưa ra tự do ngôn luận và nhân quyền để đòi lập hội, nhóm bất chấp quy định, kêu gọi biểu tình, kích động trái phép. Bên cạnh đó, họ lợi dụng vấn đề viện trợ, quan hệ kinh tế, thương mại, ngoại giao để gây sức ép với Đảng và Nhà nước ta về cái gọi là “vi phạm dân chủ, nhân quyền”, hòng làm thay đổi đường lối, chính sách, hệ thống pháp luật và lĩnh vực tư pháp của chúng ta.
Không phải ngẫu nhiên mà một số tổ chức phi chính phủ nước ngoài thường rất quan tâm đến những địa bàn trọng điểm về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nước ta. Phát triển các tổ chức “xã hội dân sự” luôn được không ít “đối tác hai mặt” coi như một phương thức để “diễn biến hòa bình” tiến tới “diễn biến không hòa bình” hòng triệt tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta.
Ba là, đấu tranh với quan điểm “Chỉ có thể chống được tham nhũng khi thực hiện thể chế tam quyền phân lập để kiểm soát quyền lực”.
Về thực chất, quan điểm này không hướng đến mục tiêu phòng, chống tham nhũng mà muốn nhân danh chống tham nhũng, lợi dụng đấu tranh chống tham nhũng để kích động đòi thay đổi thế chế chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, lật đổ Nhà nước XHCN.
Các nước tư bản hầu như đều vận dụng thuyết tam quyền phân lập trong xây dựng, tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước với nhiều biến thể khác nhau, tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở không ít quốc gia tư bản, thể chế này không thể ngăn chặn được sự chuyên quyền. Theo đó, có thể nói, “tam quyền phân lập” không phải là mấu chốt để giải quyết vấn đề tham nhũng. Bởi, tham nhũng xảy ra ở những nơi mà hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế còn bất cập, thiếu kín kẽ, thiếu chặt chẽ, không công khai, minh bạch; sự kiểm tra, giám sát chưa được duy trì có hiệu quả; vai trò của nhân dân, của dư luận xã hội chưa được phá huy đầy đủ; các hoạt động quản lý, giáo dục bị buông lỏng… Chính vì vậy, “tam quyền phân lập” không phải là “chìa khóa vạn năng” để xóa bỏ được nguồn gốc, nguyên nhân dẫn đến tham nhũng; không thể là phương thức và giải pháp duy nhất để đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả.
Bất kể thể chế chính trị nào, công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng chỉ có thể thành công khi có quyết tâm chính trị cao, coi trọng công tác phòng ngừa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa quản lý, giáo dục, tu dưỡng rèn luyện là cơ bản với trừng trị nghiêm khắc những cá nhân vi phạm; hoàn thiện thể chế về chống tham nhũng, tăng cường năng lực của bộ máy nhà nước và tính đồng bộ về pháp luật, pháp chế, kỷ cương; thực hiện tốt việc giám sát của các tổ chức, cá nhân trong xã hội với hoạt động của cơ quan nhà nước; có chính sách đãi ngộ với đội ngũ cán bộ công chức, viên chức...
TIẾP TỤC TỔNG KẾT THỰC TIỄN, PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN
Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là quá trình lâu dài, đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục tổng kết thực tiễn, không ngừng bổ sung, phát triển lý luận. Trong thời gian tới, cần quan tâm:
Thứ nhất, đưa tinh thần của Đại hội XIII vào cuộc sống một cách thiết thực, bảo đảm cho nền dân chủ XHCN được thực thi một cách hiệu quả nhất.
Thứ hai, nâng cao hơn nữa nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Tiếp tục thực hiện đổi mới đồng bộ trên các mặt hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp; đổi mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và giáo dục, khoa học và công nghệ; đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Thứ ba, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái, thù địch, tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển trên con đường đi lên CNXH./.
TS. Bùi Văn Huấn
Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang
________________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.5, tr.698.
(2) (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2016, tr. 173-174, 174.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.174-175.
(5) Hội đồng Lý luận Trung ương: Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị trong Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2018, tr.98.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa