Thứ Hai, 25 tháng 10, 2021

ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ KHÔNG PHẢI LÀ “LÝ THUYẾT, PHI THỰC TẾ”

 Phạm Trung

Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn đang ra sức chống phá quan điểm Đại hội XIII của Đảng. Một trong những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch đó là: Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế của Đảng ta chỉ là lý thuyết, phi thực tế. Các thế lực thù địch rêu rao rằng: Không thể có độc lập tự chủ trong hội nhập quốc tế; đã độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế và ngược lại, đã hội nhập quốc tế thì không thể có độc lập, tự chủ. Đồng thời, chúng còn cho rằng: Với một Đảng duy nhất cầm quyền, tạo sự khác biệt về thể chế so với các nước trên thế giới thì càng không thể hội nhập quốc tế. Việc nhận thức và giải quyết đúng đắn, hiệu quả trên thực tế mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế của Đảng ta qua 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới là luận cứ sinh động bác bỏ quan điểm sai trái, thù địch trên.

Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.

Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là mối quan hệ biện chứng, tất yếu, khách quan, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy và hỗ trợ lẫn nhau. Trong cương lĩnh và văn kiện của Đảng ta, mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế được thể hiện rất rõ. Đây chính là cơ sở để phát triển chính sách đối ngoại Việt Nam trong suốt những năm đổi mới vừa qua. Một trong các bài học được rút ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) đã chỉ rõ mối quan hệ này, cụ thể là: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, trong bất cứ hoàn cảnh nào cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực[1]. Báo cáo Chính trị Đại hội XI của Đảng cũng nêu rõ đường lối đối ngoại của Việt Nam thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế… Đặc biệt, chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển… giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế[2].

Các văn kiện Đại hội XII, XIII đều tiếp tục khẳng định những nội dung nêu trên, cụ thể hoá mối quan hệ độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cho từng thời kỳ phát triển của đất nước. Trong Báo cáo Chính trị Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi[3]Đồng thời, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là một trong mười mối quan hệ lớn cần phải giải quyết trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.

 Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trên thực tế.

Trong hội nhập quốc tế về lĩnh vực chính trị, từ một nước bị bao vây cấm vận, với chính sách đối ngoại đúng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã nhanh chóng thiết lập quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới. Đồng thời, Việt Nam đã chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc và các tổ chức khu vực quan trọng. Năm 2020 vừa qua, Việt Nam đã phát huy tốt vai trò là Chủ tịch ASEAN và là Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc Việt Namcó đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới, vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay đã phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Độ mở của nền kinh tế nước ta hiện nay vào loại cao nhất thế giới với tỷ trọng xuất khẩu trên GDP là hơn 200%. Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các hiệp định đa phương thế hệ mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của Việt Nam mở rộng thị trường, kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Thông qua hội nhập quốc tế, kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế Việt Nam tăng rất nhanh, từ 1,74 tỷ USD năm 1986 lên 10 tỷ USD năm 1996, 45 tỷ USD năm 2006 và 287,8 tỷ USD năm 2020. Năm 2020, đã có 112 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, trong đó, dẫn đầu là Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản.

Hội nhập trong lĩnh vực văn hoá xã hội, Việt Nam đã ký hơn 100 thoả thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hoá, đã thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày càng nhiều. Các hình thức giao lưu văn hoá, phim ảnh, thời trang… của Việt Nam với quốc tế ngày càng nhiều.

Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng an ninh cũng không ngừng được phát triển và mở rộngViệt Nam đã đẩy mạnh thực hiện các cơ chế đối thoại Quốc phòng - An ninh, giao lưu biên phòng với các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia, trao đổi hữu nghị của tàu hải quân được đẩy mạnh. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước, đặt văn phòng tuỳ viên quân sự tại hơn 30 nước và hơn 40 nước có văn phòng tuỳ viên quân sự tại Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam cũng đã tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốcđã gửi các sỹ quan thông tin đến các Phái bộ gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc tại Cộng hoà Trung Phi, Nam Xu Đăng và tiếp theo đó đã triển khai các bệnh viện dã chiến cấp 2 và công binh.

Những thành tựu trên là luận cứ khoa học đập tan luận điệu chống phá của các thế lực thù địch cho rằng: Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế của Đảng ta chỉ là lý thuyết, phi thực tế. Để tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng trong tiến hành sự nghiệp đổi mới, cần tiếp tục nhận thức và vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr.66.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr.187.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2021, tr.161-162.

1 nhận xét: