Hồng Hạc
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, để bảo vệ nền độc lập non trẻ, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã xác định: “Đối với Mỹ, việc ngoại giao mới có đôi phần kết quả, cần phải nhanh chóng tiến tới để Mỹ chính thức công nhận nền độc lập hoàn toàn của Việt Nam và giao hòa với chúng ta”. Với phương châm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động liên hệ với một số nhân vật có tầm ảnh hưởng đối với Chính phủ Mỹ.
Để xây dựng mối quan hệ Việt - Mỹ lâu dài,
trên nhiều lĩnh vực, ngày 1-11-1945, trong thư gửi Ngoại trưởng Mỹ James F.
Byrnes, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ mong muốn “gửi một phái đoàn khoảng năm
mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ
văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục
nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác”. Qua
đó cho thấy sự khéo léo và tầm nhìn của Người trong quan hệ với Mỹ.
Ngày 18-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư
tới Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Harry Truman. Người đã cảnh báo về “những hệ
lụy đối với an ninh thế giới từ sự xâm lược của Pháp vào Việt Nam”.
Bức thư cũng thể hiện sự đồng tình ủng hộ của
Việt Nam với quan điểm Tổng thống Mỹ về nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết
của các dân tộc: “Việt Nam nồng nhiệt hoan nghênh bài phát biểu của Tổng thống
Truman ngày 28-10-1945, trong đó nêu rõ các nguyên tắc bình đẳng và quyền tự
quyết được nêu ra trong các Hiến chương Đại Tây Dương và San Francisco”. Cuối
thư, Người bày tỏ hy vọng “Hoa Kỳ sẽ giúp nhân dân Việt Nam bảo vệ độc lập và
ủng hộ nhân dân Việt Nam trong quá trình tái thiết đất nước” và cam kết nếu
nhận được sự ủng hộ của Hoa Kỳ, “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ đóng góp công sức
vào việc xây dựng hòa bình và thịnh vượng trên thế giới.
Tiếp đó, trong thư gửi Tổng thống Harry Truman
ngày 16-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cũng như Philippines, mục tiêu của
chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ. Chúng tôi sẽ
làm hết sức mình để làm cho nền độc lập và sự hợp tác này trở nên có lợi cho
toàn thế giới”. Chỉ sau hơn một năm đất nước giành được độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã “tám lần gửi thông điệp, thư, điện cho Tổng thống và Ngoại trưởng
Mỹ, giới thiệu tình hình Đông Dương, đề nghị Hoa Kỳ công nhận nền độc lập của
Việt Nam, góp phần ngăn chặn cuộc chiến tranh xâm lược do thực dân Pháp gây ra
ở Đông Dương”. Qua đó cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dốc tâm tìm kiếm sự ủng
hộ của Mỹ đối với nền độc lập non trẻ của Việt Nam và xây dựng quan hệ hữu nghị
giữa hai quốc gia. Nhưng có lẽ do cân nhắc giữa mối quan hệ với “đồng minh
chiến lược” của Mỹ khi đó là Pháp với việc ủng hộ một Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa mới được thành lập và đang phải đối mặt với “muôn vàn gian khó”,
trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, nên Tổng thống Harry Truman đã chọn
giải pháp im lặng trước tình cảm nhiệt thành của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của
Chính phủ và nhân dân Việt Nam đối với nước Mỹ.
Vì vậy mối quan hệ Việt - Mỹ đã rẽ sang một
hướng khác đầy chông gai. Mỹ đã tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại xâm lược
Việt Nam. Sau khi Pháp thua trận, Mỹ trực tiếp can dự, đưa quân xâm lược Việt
Nam (1954 - 1975). Tiếp đến là thời kỳ Mỹ thực hiện bao vây, cấm vận Việt Nam
(1975 - 1994). Có thể nói đây là giai đoạn lịch sử bi thương nhất trong quan hệ
Việt - Mỹ.
Nhưng rồi trước xu thế hội nhập, và vai trò vị
trí của nước này đối với sự phát triển và thực hiện các mục tiêu chiến lược của
nước kia; trước yêu cầu của nhiệm vụ phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh, quốc
phòng của mỗi nước, của khu vực và thế giới, cái gì đến rồi cũng phải đến. Và
điều tất yếu đã diễn ra, ngày 12-7-1995, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thiết lập quan
hệ ngoại giao, mở ra chương mới tốt đẹp cho quan hệ giữa hai nước./.
Tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mãi mãi toả sáng cho mọi thế hệ học tập và làm theo
Trả lờiXóa