Thứ Hai, 30 tháng 9, 2019

Xu hướng tập hợp lực lượng mới tại châu Á - Thái Bình Dương và tác động đến Việt Nam


Ảnh minh họa - Nguồn: tuyengiao.vn
Các xu hướng tập hợp lực lượng mới tại châu Á - Thái Bình Dương
Trong chính trị quốc tế, tập hợp lực lượng là hình thức phối hợp các hoạt động, xác lập các mối liên hệ, liên minh, liên kết trên các lĩnh vực giữa các chủ thể quốc tế chính nhằm đạt được một mục đích cụ thể (như giải quyết một “điểm nóng”, một mâu thuẫn chung; bảo vệ lợi ích quốc gia; tăng cường sức mạnh; tăng lợi thế cạnh tranh; áp đảo đối phương...).
Trong bối cảnh hiện nay tại châu Á - Thái Bình Dương, so sánh lực lượng thay đổi mạnh mẽ. Các quốc gia, nhất là các nước lớn, đều chú trọng điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường mở rộng quan hệ nhằm phát huy ảnh hưởng, tranh giành lợi ích về mọi mặt và tạo lập một vị thế có lợi nhất trong cục diện an ninh khu vực đang dần định hình. Các cách thức tập hợp lực lượng hiện nay rất đa dạng, linh hoạt và cơ động hơn, tùy theo từng vấn đề, từng thời điểm trong quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Yếu tố ý thức hệ tư tưởng không còn đóng vai trò chủ đạo như trước đây, đồng thời cũng không còn là sự trở ngại không thể vượt qua trong quan hệ giữa các nước. Lợi ích quốc gia - dân tộc có vị trí nổi trội, quy định mục tiêu, nội dung, phương châm đối ngoại và cách thức tập hợp lực lượng của mỗi nước, mỗi tổ chức quốc tế và khu vực. Mỗi quốc gia dù lớn hay nhỏ, đều xuất phát từ lợi ích quốc gia - dân tộc để thể hiện quan điểm, thái độ riêng đối với các vấn đề quốc tế. Sự tập hợp lực lượng trên bàn cờ quốc tế không theo chiều dọc với cơ sở là hệ tư tưởng, mà là sự tập hợp đan xen, đa dạng, linh hoạt với mẫu số chung là sự trùng hợp lợi ích quốc gia trong từng thời điểm lịch sử nhất định, theo địa bàn, trong đó các nước vừa hợp tác, vừa cạnh tranh lẫn nhau.
Với khuôn khổ quan hệ nêu trên, các nước lớn và quan hệ giữa các nước này luôn đóng vai trò chủ đạo, chi phối các mối quan hệ quốc tế cùng quá trình hình thành và cơ chế vận hành của các tập hợp lực lượng quốc tế, hướng tới hình thành trật tự thế giới mới. Sự tập hợp lực lượng hiện nay của các nước lớn diễn ra ở cả hai cấp độ: giữa các nước lớn với nhau và giữa các nước lớn với các nước nhỏ. Nhìn tổng quát, sự tập hợp lực lượng giữa các nước lớn thể hiện ở các dạng sau: Một là, Mỹ dùng mối quan hệ với từng cường quốc để hạn chế sự phát triển của các nước này. Hai là, các cường quốc quan hệ với Mỹ để hạn chế sự vươn lên của các cường quốc khác. Ba là, các cường quốc tập hợp với nhau để chống siêu cường Mỹ. Sự tập hợp lực lượng giữa các nước lớn như vậy được dựa trên lý thuyết về cân bằng quyền lực: dùng mối quan hệ với một nước để tạo thêm sức mạnh trong quan hệ với các nước khác.
Nhìn tổng thể, có thể thấy hai cơ sở khách quan của việc hình thành những liên kết, tập hợp lực lượng mới ở châu Á - Thái Bình Dương. Thứ nhất, sự trùng hợp về lợi ích trong việc giải quyết các vấn đề của thế giới. Thứ hai, sự gần gũi về địa lý, dân tộc, tôn giáo, lịch sử... Những cơ sở này quy định các xu hướng, các hình thức tập hợp lực lượng rất đa dạng, phong phú, không bất biến, mà luôn vận động, thay đổi, thể hiện sự phức tạp của quá trình hợp tác và đấu tranh giữa các lực lượng khác nhau trong quan hệ quốc tế tại châu Á - Thái Bình Dương.
Xu hướng tập hợp lực lượng dựa trên sự trùng hợp về lợi ích
Xu hướng này mang tính phổ biến và xuyên suốt trong quan hệ quốc tế qua các giai đoạn lịch sử. Nhưng nét mới của xu hướng này ở châu Á - Thái Bình Dương là có sự tham gia của các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau trong các tổ chức, các liên kết nhằm giải quyết các vấn đề quốc tế trên cơ sở bảo đảm lợi ích của các quốc gia. Những lợi ích đó có thể mang tính tổng thể (cùng giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu...), hoặc chỉ mang tính bộ phận (lợi ích chính trị, lợi ích kinh tế, lợi ích an ninh, lợi ích phát triển...). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) và quá trình toàn cầu hóa đã và đang tác động đến lợi ích nhiều mặt của các quốc gia. Xu thế phát triển của trật tự thế giới trong tương lai là tiến tới một hệ thống đa cực, bởi lẽ trên bình diện toàn cầu, một quốc gia, dù là siêu cường, cũng không thể có khả năng kiểm soát thực tế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hóa 4.0 khiến không một quốc gia nào đủ khả năng thiết lập một trật tự đơn cực mà phải hợp tác với các cường quốc khác và các tổ chức quốc tế.
Nhìn tổng thể, những điều chỉnh trong chính sách của Tổng thống Mỹ Đô-nan Trăm từ sau khi lên cầm quyền đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng và thế giới nói chung không thực sự đem lại kết quả như mong muốn. Nhưng, với quan điểm “nước Mỹ trên hết”, chính sách của Tổng thống Đ.  Trăm không chỉ đơn thuần nhằm phục vụ lợi ích trong nước Mỹ, mà còn được mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Đặc biệt hơn là cách tiếp cận mới theo hướng điều gì có lợi cho Mỹ thì thực hiện. Tổng thống Đ. Trăm không theo quy tắc của người tiền nhiệm là “vừa bước, vừa thăm dò”, mà lựa chọn cách khác, theo hướng có chọn lọc, trọng điểm, tập trung vào các đồng minh và những đối tác quan trọng với Mỹ. Đó là: quan hệ Mỹ - Nhật Bản, Mỹ  - Hàn Quốc và Mỹ - Ô-xtrây-li-a, Mỹ - Đài Bắc Trung Hoa, những nước và vùng lãnh thổ có vai trò quan trọng đối với Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời thể hiện sự kiên nhẫn và quan tâm với các đồng minh truyền thống khác, như Phi-líp-pin và Thái Lan.
Có thể nhận thấy một loạt thỏa thuận chiến lược, kinh tế, kết cấu hạ tầng mà Mỹ thiết lập với các đồng minh nhằm đẩy lùi ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ví dụ, Mỹ đưa ra một số sáng kiến kinh tế, sáng kiến kết nối kỹ thuật số và đối tác an ninh (25 triệu USD), sáng kiến thúc đẩy phát triển và tăng trưởng thông qua năng lượng (50 triệu USD), sáng kiến minh bạch Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (400 triệu USD)(1).
Xu hướng tập hợp lực lượng trên cơ sở sự trùng hợp về lợi ích cũng dẫn đến tình trạng một quốc gia hoặc một tập hợp các quốc gia tiến hành áp đặt quốc gia khác, bất chấp những chuẩn mực và nguyên tắc của luật pháp quốc tế, dẫn tới các cơ chế an ninh tập thể vì thế mà bị suy giảm tác dụng nhiều so với trước. Tiền lệ này trở thành một mối đe dọa đối với không ít quốc gia và để đối phó, họ sẽ tìm kiếm những hình thức và mức độ tập hợp lực lượng mới, co cụm mới, thậm chí tiến hành chạy đua vũ trang. Ví dụ, sự liên kết, liên minh đa phương đã và đang được hình thành ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, một mặt, nhằm thích nghi với những chuyển động mới của khu vực. (Liên kết Nhật Bản - Phi-líp-pin - Ô-xtrây-li-a được đẩy mạnh nhằm thực hiện những tính toán riêng của các nước này. Liên kết đa phương Nhật Bản - Ấn Độ - Ô-xtrây-li-a nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia của mỗi nước và đối phó với khả năng thỏa hiệp giữa các nước lớn khác); mặt khác, còn nhắm đến việc xây dựng sức mạnh tổng hợp cùng năng lực chung, cùng nhau đối phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống đang nổi lên tại khu vực.
Xu hướng tập hợp lực lượng dựa trên cơ sở gần gũi về địa lý, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, dân tộc
Không gian châu Á - Thái Bình Dương được mở rộng hơn qua chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” do Tổng thống Mỹ Đ. Trăm công bố tại Hội nghị Diễn đàn cấp cao châu Á - Thái Bình Dương được tổ chức tại Việt Nam hồi tháng 12-2017. Theo đó, các nước trong không gian này có vị trí địa lý gần gũi, tuy khác nhau về thể chế chính trị, về trình độ phát triển kinh tế, về văn hóa, tôn giáo... nhưng đều có một nhu cầu chung là hợp tác để tăng cường thế và lực của mình ở khu vực cũng như trên trường quốc tế. Khác với trước đây, việc liên kết, tập hợp lực lượng dựa trên cơ sở gần gũi về địa lý, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, dân tộc ở châu Á - Thái Bình Dương hiện nay mang tính “mở” hơn, toàn diện và đa dạng về hình thái lẫn thành phần. Thứ nhất, mở rộng số lượng thành viên của các tổ chức và diễn đàn hợp tác khu vực. Trường hợp của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Thượng đỉnh Á - Âu (ASEM) hay Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) là những minh chứng. Thứ hai, sự đa dạng về thể chế chính trị và trình độ phát triển của các thành viên tham gia tổ chức khu vực. Cộng đồng ASEAN, “Hiệp ước đối tác chiến lược cho thế kỷ XXI” giữa Nga và Trung Quốc, Diễn đàn Sang-gri La (Hội nghị Thượng đỉnh an ninh châu Á)... là những ví dụ. Thứ ba, sự mở rộng hợp tác, liên kết giữa các tổ chức khu vực với nhau, hình thành khái niệm về sự hợp tác liên khu vực. Các tổ chức khu vực không chỉ giới hạn sự hợp tác, liên kết kinh tế của mình trong nội bộ khu vực mà còn mở rộng hợp tác kinh tế với các khu vực khác hoặc các tổ chức, diễn đàn mang tính liên khu vực, như Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị Thượng đỉnh Á - Âu (ASEM)... Thứ tư, hiện tượng một quốc gia có thể đồng thời là thành viên của vài tổ chức hợp tác kinh tế khu vực khác nhau. Trường hợp có những nước vừa tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), vừa tham gia Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) là những ví dụ.
Các liên kết, tập hợp lực lượng dựa trên cơ sở gần gũi về truyền thống lịch sử, văn hóa, tôn giáo còn là xu hướng lâu dài nhất trong các liên kết, liên minh. Các liên kết này dựa trên cơ sở khách quan là sự gần gũi giữa các dân tộc về mặt tôn giáo, như Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC) là nơi tập hợp của các quốc gia và các dân tộc theo đạo Hồi trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng như trên toàn thế giới; việc tổ chức Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak trong các năm vừa qua tại khu vực; hay sự tương đồng về văn hóa và ngôn ngữ trong Cộng đồng Pháp ngữ (Francophonie)... Hiện nay, các tập hợp lực lượng này cũng bắt đầu có xu hướng mở rộng sang các lĩnh vực khác, như chính trị, kinh tế, an ninh...
Tác động từ sự tập hợp lực lượng mới tại châu Á - Thái Bình Dương đối với Việt Nam
Xu hướng tập hợp lực lượng mới với sự vận động và những điều chỉnh tương quan lực lượng giữa các chủ thể quốc tế lớn tại khu vực, tác động mạnh đến quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam theo cả hai chiều thuận lợi và khó khăn.
Về thuận lợi:
Một là, tạo môi trường khu vực hòa bình, hợp tác, thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Tập hợp lực lượng của các nước lớn tại khu vực nhằm tăng cường sức mạnh của họ trong cạnh tranh, nhưng sẽ dẫn tới cục diện cân bằng sức mạnh và hòa bình, ổn định tương đối trong khu vực. Xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế, đồng thời tác động sâu sắc đến chính sách đối ngoại của các quốc gia. An ninh của mỗi quốc gia ngày nay được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển nhằm tăng cường sức mạnh quốc gia trong hội nhập quốc tế. Tất cả các quốc gia đều thi hành chính sách linh hoạt, mềm dẻo, tăng cường hợp tác, tránh đối đầu và chiến tranh, giải quyết mọi bất đồng bằng biện pháp hòa bình. Tuy nhiên, ở khu vực xung đột cục bộ, tiềm ẩn những bất ổn có thể bùng phát thành chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra, nhưng những xung đột này khó có khả năng lan rộng, lôi cuốn sự đối đầu trực tiếp của các nước lớn, vì họ đều có lợi ích lâu dài và cơ bản trong việc duy trì hòa bình để bảo vệ lợi ích cốt lõi và phát triển. Điều này có lợi cho Việt Nam khi thực hiện đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, tiến tới sự cân bằng quan hệ với các nước lớn. Hơn nữa, xu thế hòa bình, hợp tác trong khu vực sẽ là môi trường thuận lợi để Việt Nam phát triển kinh tế, đối thoại quốc phòng - an ninh, ổn định chính trị, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Hai là, tạo cơ hội mở rộng hợp tác, nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.
Trong bối cảnh Mỹ tăng cường tập hợp lực lượng nhằm khẳng định vị thế của mình, các nước đồng minh của Mỹ cũng có thêm vị thế mới, họ vừa tìm cách dàn xếp với Mỹ, vừa tìm kiếm những tập hợp lực lượng khác có lợi cho mình. Sự tập hợp lực lượng của các nước lớn và đồng minh vô hình chung giúp các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam, nâng cao vị thế, tạo cơ hội liên kết, hợp tác mới trong các vấn đề khu vực và quốc tế. Điều này tạo ra những thuận lợi rất căn bản cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Chúng ta có nhiều thuận lợi trong thiết lập, xây dựng các mối quan hệ song phương, đa phương, mạnh mẽ, gắn kết, tin cậy và cùng có lợi với các quốc gia, tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn cùng chia sẻ lợi ích. Việt Nam cũng có thêm nhiều sự lựa chọn để tránh không rơi vào tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào một quốc gia trong bảo vệ an ninh, quốc phòng của mình; có thêm cơ hội thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế, xây dựng và phát huy vai trò của mình trong Cộng đồng ASEAN, nâng cao vị thế trong bối cảnh đa dạng hình thức tập hợp lực lượng và gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn hiện nay.
Ba là, tạo thuận lợi cho Việt Nam giảm thiểu sức ép của các nước lớn, đấu tranh có hiệu quả hơn với các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
Trong bối cảnh các nước lớn điều chỉnh chính sách, quan tâm hơn đối với khu vực, Việt Nam có điều kiện phát triển quan hệ hợp tác với tất cả các cường quốc, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư. Với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, có quan hệ sâu rộng với tất cả các nước lớn, Việt Nam ngày càng thu hút sự quan tâm của các nước lớn. Điều này tạo thuận lợi cho Việt Nam trong triển khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, giảm thiểu sức ép của các nước lớn đối với công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam có thể thúc đẩy mạnh hơn quan hệ hợp tác trong các vấn đề địa  - chiến lược để kiềm chế, đẩy lùi âm mưu, hành động của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc và tự do tôn giáo nhằm can thiệp công việc nội bộ, chống phá Việt Nam.
Về khó khăn:
Một là, những khó khăn mới sẽ nảy sinh, cản trở phát triển kinh tế của Việt Nam.
Để phát triển bền vững, Việt Nam thực hiện chủ trương cấu trúc lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, kiềm chế, kiểm soát lạm phát, đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong bối cảnh xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng ngay tại các thị trường xuất khẩu chính và có lợi, nhất là Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Việc Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra quyết liệt,... đã, đang và sẽ tiếp tục tạo ra những khó khăn, thách thức mới đối với phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của Việt Nam.
Hai là, những khó khăn trong giữ vững ổn định chính trị và bảo vệ chế độ.
Các biến động của tình hình thế giới và khu vực; sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn tạo thêm áp lực và một số khó khăn, phức tạp mới đối với nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của trào lưu dân túy trên thế giới khuyến khích và tạo cơ hội cho những phần tử lợi dụng chiêu bài “chính danh, chính nghĩa” để thực hiện các ý đồ chống Đảng, chống chế độ, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ âm mưu, hành động “diễn biến hòa bình” và hoạt động can thiệp, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nhằm thay đổi chế độ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, núp dưới các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... với nhiều biện pháp tinh vi, xảo quyệt. Thời đại công nghệ thông tin, mạng xã hội và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ,... khiến các thế lực thù địch có thêm công cụ kích động, can thiệp sâu công việc nội bộ của Việt Nam.
Ba là, những thách thức, phức tạp mới trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và nguy cơ xung đột tại các “điểm nóng” tiềm tàng, tác động trực tiếp, gián tiếp đến môi trường an ninh của Việt Nam. Các nước ASEAN có mục tiêu chung là xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, song mỗi nước có lợi thế và lợi ích riêng, nên việc củng cố đoàn kết, hợp tác nội khối về những vấn đề chính trị nhạy cảm rất phức tạp, khó khăn, nhất là giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo gặp khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải tính toán kỹ và xử lý đúng đắn các mối quan hệ với các nhân tố, như Trung Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản và ASEAN.
Tóm lại, những xu hướng tập hợp lực lượng mới cùng sự gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tại châu Á - Thái Bình Dương tác động mạnh mẽ tới môi trường hòa bình, an ninh, phát triển của Việt Nam. Chưa bao giờ Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội to lớn như hiện nay và cũng chưa bao giờ môi trường an ninh của Việt Nam lại chịu sự tác động, thách thức từ nhiều vấn đề phức tạp, đa chiều, đa hướng như bây giờ. Cơ hội và thách thức đan xen với nhau, nếu không kịp thời tranh thủ, cơ hội sẽ biến thành thách thức; nếu “hóa giải” thành công, thách thức sẽ chuyển thành cơ hội cho đất nước phát triển. Đồng thời, chúng ta phải xây dựng được các mối quan hệ song phương, đa phương, gắn kết, tin cậy và cùng có lợi với các quốc gia khác, tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn và cộng đồng quốc tế, phải biết dựa vào các tổ chức đa phương khu vực, quốc tế, dựa vào luật pháp quốc tế và những nguyên tắc phổ quát của mối quan hệ giữa các quốc gia được quốc tế thừa nhận để đối phó với những khó khăn, thách thức.
Hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong thời gian qua được đẩy mạnh trên cả bình diện song phương và đa phương. Việt Nam đã có những lựa chọn đúng đắn trong hội nhập quốc tế, có những đóng góp tích cực vào việc củng cố đoàn kết của ASEAN, cùng các nước ASEAN duy trì vai trò trung tâm trong cấu trúc khu vực. Đặc biệt, với vai trò chủ nhà của Hội nghị Cấp cao APEC 2017, đăng cai tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới về ASEAN, Việt Nam đã chủ động đưa ra các nghị trình, vấn đề thảo luận phù hợp với lợi ích của các nền kinh tế thành viên. Thành công trên cho thấy tầm nhìn chiến lược đối ngoại và “phương cách Việt Nam” có thể góp phần hóa giải các bất đồng, thách thức của thời cuộc, đem lại triển vọng hòa bình, ổn định và phát triển năng động cho khu vực và đất nước./.
---------------------------------------------------
(1) Kong Anh: “Sáng kiến “Tầm nhìn Kinh tế Ấn Độ  - Thái Bình Dương” và tham vọng của Mỹ” http://antg.cand.com.vn/Kinh-te-Van-hoa-The-Thao/Sang-kien-Tam-nhin-Kinh-te-An-Do-Thai-Binh-Duong-va-tham-vong-cua-My-505250/
Thái Văn Long (*), Thái Thanh Phong (**)(*) PGS, TS, Phó Viện trưởng Viện Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (**) Thành đoàn Hà Nội

3 nhận xét:

  1. Thành công của Việt Nam cho thấy tầm nhìn chiến lược đối ngoại và “phương cách Việt Nam” có thể góp phần hóa giải các bất đồng, thách thức của thời cuộc, đem lại triển vọng hòa bình, ổn định và phát triển năng động cho khu vực và đất nước.

    Trả lờiXóa
  2. Việt Nam đã có những lựa chọn đúng đắn trong hội nhập quốc tế, có những đóng góp tích cực vào việc củng cố mối đoàn kết của ASEAN, cùng các nước ASEAN duy trì vai trò trung tâm trong cấu trúc khu vực.

    Trả lờiXóa
  3. Với vai trò chủ nhà của Hội nghị Cấp cao APEC 2017, đăng cai tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới về ASEAN; Việt Nam đã chủ động đưa ra các nghị trình, vấn đề thảo luận phù hợp với lợi ích của các nền kinh tế thành viên.

    Trả lờiXóa